×
Những Hồng Phúc Nơi Makkah Thiêng Liêng: Đây là bài Khutbah Jumu’ah (thuyết giảng thứ sáu) với chủ đề “Các hồng phúc nơi Makkah thiêng liêng” do Sheikh Su’ud Ash-Shuraim, một trong những Imam của Thánh đường Al-Haram – cầu xin Allah phù hộ và che chở cho ông – thuyết giảng tại Thánh đường Al-Haram vào ngày thứ sáu 14/11/1431 hijri tức vào năm 2010 tây lịch. Trong bài thuyết giảng, ông đã trình bày về một số các hồng phúc cũng như các giá trị thiêng liêng của Thánh đường Al-Haram và vùng đất Makkah linh thiêng thông qua các dẫn chứng từ Qur’an và Sunnah.

    Những Hồng Phúc Nơi Makkah Thiêng Liêng

    ] Tiếng Việt – Vietnamese – فيتنامية [

    Sheikh:

    Tiến sĩ Su’ud bin Ibrahim Ash-Shuraim

    Dịch thuật: Abu Zaytune Usman Ibrahim

    Kiểm duyệt: Abu Hisaan Ibnu Ysa

    2012 - 1433

    فضائل مكة المكرمة

    « باللغة الفيتنامية »

    لفضيلة الشيخ

    دكتور: سعودبن إبراهيم الشريم

    ترجمة: أبو زيتون عثمان إبراهيم

    مراجعة: أبو حسان محمد زين بن عيسى

    2012 - 1433

    Đây là bài Khutbah Jumu’ah (thuyết giảng thứ sáu) với chủ đề “Các hồng phúc nơi Makkah thiêng liêng” do Sheikh Su’ud Ash-Shuraim, một trong những Imam của Thánh đường Al-Haram – cầu xin Allah phù hộ và che chở cho ông – thuyết giảng tại Thánh đường Al-Haram vào ngày thứ sáu 14/11/1431 hijri tức vào năm 2010 tây lịch. Trong bài thuyết giảng, ông đã trình bày về một số các hồng phúc cũng như các giá trị thiêng liêng của Thánh đường Al-Haram và vùng đất Makkah linh thiêng thông qua các dẫn chứng từ Qur’an và Sunnah.

    Khutbah đầu

    إِنَّ الحَمْدُ لِلّه نَحْمَدُهُ وَنَسْتَعِيْنُهُ وَنَسْتَغْفِرُهُ ، وَنَعُوْذُ بِاللهِ مِنْ شُرُوْرِ أَنْفُسِنَا وَمِنْ سَيِّئَاتِ أَعْمَالِنَا ، مَنْ يَهْدِ اللهُ فَلاَ مُضِلَّ لَهُ ، وَ مَنْ يُضْلِلْ فَلاَ هَادِيَ لَهُ. وَأَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَحْدَهُ لَا شَرِيكَ لَهُ وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ

    ﴿ يَاأَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا اتَّقُوا اللَّهَ حَقَّ تُقَاتِهِ وَلا تَمُوتُنَّ إِلا وَأَنْتُمْ مُسْلِمُونَ ﴾ [سورة آل عمران : 102].

    ﴿ يَاأَيُّهَا النَّاسُ اتَّقُوا رَبَّكُمُ الَّذِي خَلَقَكُمْ مِنْ نَفْسٍ وَاحِدَةٍ وَخَلَقَ مِنْهَا زَوْجَهَا وَبَثَّ مِنْهُمَا رِجَالا كَثِيرًا وَنِسَاءً وَاتَّقُوا اللَّهَ الَّذِي تَسَاءَلُونَ بِهِ وَالأرْحَامَ إِنَّ اللَّهَ كَانَ عَلَيْكُمْ رَقِيبًا ﴾ [سورة النساء : 1].

    ﴿ يَاأَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا اتَّقُوا اللَّهَ وَقُولُوا قَوْلا سَدِيدًا يُصْلِحْ لَكُمْ أَعْمَالَكُمْ وَيَغْفِرْ لَكُمْ ذُنُوبَكُمْ وَمَنْ يُطِعِ اللَّهَ وَرَسُولَهُ فَقَدْ فَازَ فَوْزًا عَظِيمًا ﴾ [ سورة الأحزاب : 70 ، 71].

    Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng lên Allah! Bầy tôi xin ca ngợi và tán dương Ngài, bầy tôi cầu xin Ngài phù hộ và che chở, bầy tôi cầu xin Ngài thá thứ tội lỗi, bầy tôi xin quay về sám hối cùng Ngài, và bầy tôi cầu xin Ngài giúp bầy tôi tránh khỏi mọi điều xấu từ bản thân bầy tôi và mọi điều xấu từ việc làm và hành vi của bầy tôi. Quả thật, người nào được Allah hướng dẫn sẽ không bao giờ bị lạc lối còn người nào bị Ngài làm cho lạc lối thì sẽ không bao giờ tìm thấy được sự hướng dẫn. Bề tôi xin chứng nhận rằng không có Thượng Đế đích thực nào ngoài Allah, Ngài là Thượng Đế duy nhất không có đối tác cùng Ngài, và bề tôi xin chứng nhận Muhammad là người bề tôi và là vị Sứ giả của Ngài.

    {Này hỡi những người có đức tin! Hãy kính sợ Allah với lẽ mà Ngài phải đáng được kính sợ và các ngươi chớ đừng chết ngoại trừ các ngươi đã là những người Muslim (qui phục Ngài). } (Chương 3 – Ali ‘Imran, câu 102).

    {Này hỡi nhân loại! Hãy kính sợ Thượng Đế của các ngươi, Đấng đã tạo hóa các ngươi từ một cá thể duy nhất (Adam) và từ Y Ngài đã tạo ra người vợ của Y (Hauwa) rồi từ hai người họ Ngài đã rải ra vô số đàn ông và đàn bà (trên khắp trái đất). Và hãy kính sợ Allah, Đấng mà các người đòi hỏi (quyền hạn) lẫn nhau và hãy (kính trọng) dạ con bởi vì quả thật Allah luôn theo dõi các ngươi.} (Chương 4 - Annisa’, câu 1).

    {Hỡi những người có đức tin! Hãy kính sợ Allah mà hãy nói lời trung thực và ngay thẳng, rồi Ngài sẽ cải thiện hành động của các ngươi và tha thứ tội lỗi cho các ngươi. Và người nào tuân lệnh Allah và Thiên sứ của Ngài thì chắc chắn sẽ được thành công vô cùng to lớn.} (Chương 33 – Al-Ahzab, câu 70, 71).

    Này hỡi nhân loại!

    Một gia đình nhỏ chỉ gồm một người mẹ và một đứa bé vẫn còn chưa dứt sữa đã định cư trong cái chòi bên trên giếng nước Zamzam ở phía trên Thánh đường ân phúc, đó là một gia đình chẳng có gì ngoài một cái túi đựng với những quả chà là khô và một chiếc túi nước bằng da, giữa thung lũng hoang vu không một bóng người, không có nước cũng chẳng có cây cối vườn tược, nhưng người mẹ đức hạnh đó không hề có một chút nghi ngờ gì về Allah, bà đã luôn kiên định rằng một khi Allah đã chọn nơi xa xôi này cho bà và đứa con của bà thì chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi bà và đứa con của bà. Quả thật, bà đã tin tưởng nơi Ngài và hài lòng về sự an bài của Ngài dành cho bà khi bà nói với người chồng của bà, Ibrahim u: Có phải Allah đã ra lệnh cho chàng điều này không? (tức Allah đã ra lệnh cho chàng ra đi bỏ em và con ở lại nơi đây phải không?). Người u trả lời: Đúng vậy. Bà nói: Thế thì Ngài (Allah) sẽ không bỏ rơi chúng ta.

    Và thực sự một tin mừng đã được mang đến cho bà, một vị Thiên thần được Allah cử đến báo với bà rằng: Các người đừng lo sợ sự bỏ rơi, bởi quả thật ngôi nhà này của Allah sẽ được đứa trẻ này và cha của nó dựng lên.

    Đây là câu chuyện dài được Albukhari ghi lại trong bộ Sahih của ông.

    Quả thật, gia đình nhỏ đó đã trở thành hạt nhân của cuộc sống nơi này, là cội nguồn của cư dân nơi chốn này, và quả thật sứ mạng Nabi và Thiên sứ đã đến với chốn sa mạc của bán đảo Ả rập này, và Thánh đường Al-Haram trở thành nới trú ngụ an lành cho họ, nước Zamzam trở thành nguồn nước uống dồi dào cho họ, và Allah đã phù hộ và che chở cho họ, và Allah đã cho phép Nabi Ibrahim u cùng với Nabi Isma-il u con trai của Người xây dựng nền móng của ngôi đền Ka’bah. Allah, Đấng Tối Cao phán:

    ﴿ وَإِذۡ يَرۡفَعُ إِبۡرَٰهِ‍ۧمُ ٱلۡقَوَاعِدَ مِنَ ٱلۡبَيۡتِ وَإِسۡمَٰعِيلُ رَبَّنَا تَقَبَّلۡ مِنَّآۖ إِنَّكَ أَنتَ ٱلسَّمِيعُ ٱلۡعَلِيمُ ١٢٧ رَبَّنَا وَٱجۡعَلۡنَا مُسۡلِمَيۡنِ لَكَ وَمِن ذُرِّيَّتِنَآ أُمَّةٗ مُّسۡلِمَةٗ لَّكَ وَأَرِنَا مَنَاسِكَنَا وَتُبۡ عَلَيۡنَآۖ إِنَّكَ أَنتَ ٱلتَّوَّابُ ٱلرَّحِيمُ ١٢٨ ﴾ [سورة البقرة: 127، 128]

    {Và hãy nhớ lại khi Ibrahim và Isma-il xây móng của Ngôi đền (Ka’bah) và cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của chúng con! Xin Ngài chấp nhận (việc làm này) từ chúng con, bởi vì Ngài là Đấng Hằng nghe và Hằng biết (hết mọi việc). Lạy Thượng Đế của chúng con! Xin Ngài làm cho chúng con thành hai người Muslim (thần phục) Ngài và tạo một cộng đồng Muslim của Ngài từ con cháu của chúng con và xin Ngài hãy chỉ cho chúng con những nghi lễ bắt buộc và xin Ngài hãy lượng thứ cho chúng con bởi quả thật Ngài là Đấng Hằng lượng thứ và rất mực Khoan dung.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 127, 128).

    Quả thật, với sự thông thái cùng với kiến thức vô tận của Allah, Đấng Tối Cao, Ngài muốn xứ sở này thành một nơi mà nhân loại phải yêu thương và cùng nhau đến với nó từ khắp mọi miền của quả địa cầu, Ngài muốn tất cả nhân loại tuy khác ngôn ngữ, khác tiếng nói và khác màu da nhưng vì Allah mà họ sẽ cùng nhau tập trung ở đây để dâng lễ cầu nguyện Ngài. Allah phán bảo với Nabi Ibrahim u:

    ﴿وَأَذِّن فِي ٱلنَّاسِ بِٱلۡحَجِّ يَأۡتُوكَ رِجَالٗا وَعَلَىٰ كُلِّ ضَامِرٖ يَأۡتِينَ مِن كُلِّ فَجٍّ عَمِيقٖ ٢٧ ﴾ [سورة الحج: 27]

    {Và hãy tuyên bố với nhân loại việc thi hành Hajj. Họ sẽ đi bộ hoặc cưỡi từng con lạc đà gầy ốm băng qua từng hẻm núi sâu thẳm để đến cùng dâng lễ với Ngươi.} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 27).

    Và từ đó, việc hành hương Hajj đã trở thành một trụ cột trong năm trụ cột nền tảng của Islam được chứng nhận bởi Qur’an, Sunnah và Ijma’ (sự thống nhất của giới học giả Islam về một vấn đề, hay một điều luật nào đó trong Islam sau khi đã tranh luận và hội thảo), và người nào không vâng lệnh là kẻ vô đức tin. Allah, Đấng Tối Cao phán:

    ﴿ وَلِلَّهِ عَلَى ٱلنَّاسِ حِجُّ ٱلۡبَيۡتِ مَنِ ٱسۡتَطَاعَ إِلَيۡهِ سَبِيلٗاۚ وَمَن كَفَرَ فَإِنَّ ٱللَّهَ غَنِيٌّ عَنِ ٱلۡعَٰلَمِينَ ﴾ [سورة آل عمران: 97]

    {Và để phụng mệnh Allah thì bắt buộc con người phải đi hành hương Hajj tại ngôi đền thiêng liêng Ka’bah khi có điều kiện, và kẻ nào phủ nhận và bất tuân thì quả thật Allah là Đấng Giàu Có nhất trong toàn vũ trụ.} (Chương 3 - Ali-‘Imran, câu 97).

    Này hỡi các tín đồ Muslim!

    Quả thật, khi Allah – Đấng Tối Cao – chọn Makkah làm một Thánh đường để triệu tập nhân loại và khiến cho trái tim của nhân loại luôn hướng đến nó thì Ngài đã đặt ra trong hệ thống giáo luật của Ngài những nguyên tắc lễ nghĩa thể hiện sự cao quý của nó như một hàng rào phân biệt giữa nó với những nơi khác, Ngài đã quy định cho nó những hồng phúc cũng như những giá trị riêng biệt mà những nơi khác không có. Allah đã qui định trong hệ thống giáo luật của Ngài cho xứ sở này sự thiêng liêng và cao quí đặc biệt mà các xứ sở khác không hề có. Allah, Đấng Tối Cao và Ân phúc đã ban cho nó nhiều hồng phúc và những giá trị thiêng liêng khác nhau đến nỗi Ngài đã gọi nó là Umul-Qura (Vùng đất mẹ, thành phố mẹ). Allah, Đấng Tối Cao phán trong Qur’an: ﴿ وَلِتُنذِرَ أُمَّ ٱلۡقُرَىٰ وَمَنۡ حَوۡلَهَاۚ {Và để cho Ngươi (Muhammad) dùng để cảnh cáo (người dân của) Thành phố mẹ và người dân xung quan nó.} (Chương 6 – Al-An’am, câu 92). Và Thành phố mẹ có nghĩa là tất cả những nơi khác phải theo nó, phải vâng lệnh nó, và tất cả những nơi khác phải hướng về nó trong mỗi lần cầu nguyện Salah. Do đó, nó là Qibah (hướng chung) của các tín đồ Islam sống trên trái đất này, không có một Qibah nào khác ngoài nó.

    Bởi lẽ trên nên đại đa số học giả Islam đã cho rằng Makkah là vùng đất thiêng liêng nhất, sau đó là thành phố Madinah Annabawiyah – nơi có vị Nabi ân phúc nhất trong các vị Nabi sinh sống - , và cũng vì vậy mà Nabi e đã nói:

    « وَاللهِ إِنَّكِ لَخَيْرُ أَرْضِ اللهِ، وَأَحَبُّ أَرْضِ اللهِ إِلَى اللهِ، وَلَوْلَا أَنِّيْ أُخْرِجْتُ مِنْكِ مَا خَرَجْتُ » رواه أحمد والترمذي.

    “Thề bởi Allah, quả thật ngươi (Makkah) là vùng đất tốt lành nhất nơi Allah, là vùng đất được Allah yêu thương nhất, nếu như Ta không được lệnh rời khỏi ngươi thì chắc chắn Ta sẽ không rời khỏi ngươi.” (Ahmad, Tirmizhi).

    Và một trong các hồng phúc thiêng liêng của vùng đất Alharam này là Allah, Đấng Tối Cao, đã thề với nó hai lần trong Qur’an của Ngài, Ngài phán:

    ﴿ وَهَٰذَا ٱلۡبَلَدِ ٱلۡأَمِينِ ٣ ﴾ [سورة التين: 3]

    {TA (Allah) thề bởi Thành Phố (Makkah) an lành này.} (Chương 95 – Attin, câu 3).

    ﴿ لَآ أُقۡسِمُ بِهَٰذَا ٱلۡبَلَدِ ١ ﴾ [سورة البلد: 1]

    {TA (Allah) thề bởi thị trấn (Makkah) này.} (Chương 90 – Albalad, câu 1).

    Và một trong những điều thiêng liêng và hồng phúc của Makkah là Allah đã nghiêm cấm giết chóc và hành vi sát giới trong đó. Nabi Muhammad e nói:

    « إِنَّ مَكْةَ حَرَّمَهَا اللهِ تَعَالَى وَلَمْ يُحَرِّمْهَا النَّاسَ، وَلَا يَحِلُّ لِامْرِئٍ يُؤْمِنُ بِاللهِ وَالْيَوْمِ اْلآخِرِ أَنْ يَسْفِكَ بِهَا دَمًا، أَوْ يَعْضُدَ بِهَا شَجَرًا، فَإِنْ أَحَدٌ تَرَخَّصَ لَقِتَالِ رسول الله - صلى الله عليه وسلم - فَقُوْلُوْا لَهُ: إِنَّ اللهَ أَذِنَ لِرَسُوْلِهِ وَلَمْ يَأْذَنْ لَكَ، وَإِنَّمَا أُذِنَ لِيْ فِيْهَا سَاعَةً مِنْ نَهَارٍ، وَقَدْ عَادَتْ حُرْمَتُهَا الْيَوْمَ كَحُرْمَتِهَا بِالْأَمْسِ، وليُبلِّغ الشاهدُ الغائبَ » متفق عليه.

    “Quả thật, Makkah đã được Allah, Đấng Tối Cao, nghiêm cấm nhưng Ngài không nghiêm cấm nhân loại đến với nó, Ngài không cho phép người nào có đức tin nơi Allah và nơi cuộc sống Đời sau gây đổ máu, hay đốn chặt bất kỳ một cái cây nào ở trong nó. Và nếu có ai đó cho phép điều đó vì cho rằng Thiên sứ đã được phép đánh chiến ở nơi đó thì các ngươi hãy nói với y: Quả thật, Allah cho phép vị Thiên sứ của Ngài chứ không cho phép ngươi. Nhưng quả thật, Ta chỉ được cho phép vào một giờ của một ngày, và bây giờ nó đã bị nghiêm cấm trở lại, ngày hôm nay cũng giống như ngày hôm qua, và những ai có mặt hãy truyền đạt lại cho những ai vắng mặt.” (Albukhari, Muslim).

    Còn trong một lời dẫn xác thực khác, Nabi Muhammad e nói:

    « هذَا الْبَلَدُ حَرَّمَهُ اللهُ يَوْمَ خَلْقِ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ، فَهُوَ حَرَامٌ بِحُرْمَةِ اللهِ إِلَى يَوْمَ الْقِيَامَة، لَا يُعْضَدُ شَوْكُهُ، وَلَا يُنَفَّرُ صَيْدُهُ، وَلَا يُلتَقَطُ لُقطتُه إلا من عرَّفها، ولا يُختَلَى خَلاَه ».

    “Xứ sở này được Allah nghiêm cấm vào ngày Ngài tạo hóa các tầng trời và trái đất, và nó là vùng đất cấm của Allah cho đến Ngày tận thế, không được hái một cây cỏ nào của nó, không được săn bắt thú vật của nó, không được nhặt lượm của rơi ở nơi đó ngoại trừ biết rõ chủ nhân của món vật.” (Albukhari, Muslim).

    Đó là trật tự an ninh và bảo đảm an toàn mà Allah, Đấng rất mực Khôn ngoan và Sáng suốt, đã qui định cho vùng đất thiêng liêng và an lành này của Ngài, mục đích để có một ngọn hải đăng soi rọi và cảnh báo cho những ai muốn tiếp cận đến ngôi nhà của Allah, Alharam, từ tất cả các nơi trên thế giới, giúp họ nhận ra giá trị của sự thái bình và an ninh cũng như tác động của nó đối với cuộc sống thực tế của người dân trong việc giữ gìn và tôn trọng tính mạng, tài sản, tinh thần, và danh dự của họ. Bởi thế, Allah – Đấng Toàn năng – đã chọn Makkah làm vùng đất linh thiêng và an toàn, một vùng đất không có bạo lực và gây hại, nhưng nó không phải là từ bỏ quân sự, mà chỉ nhằm bảo đảm trật tự trị an và tốt lành cho người dân nơi đó, bởi vậy, ở nơi đó còn cấm những lời nói xấu cũng như những ngôn từ dâm dục và tục tĩu. Allah, Đấng Toàn năng phán:

    ﴿ فَلَا رَفَثَ وَلَا فُسُوقَ وَلَا جِدَالَ فِي ٱلۡحَجِّۗ ﴾ [سورة البقرة: 197]

    {Bởi thế, người nào thực hiện cuộc hành hương Hajj thì chớ dâm dục, chớ làm điều sàm bậy, tội lỗi và chớ cãi vã.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 197).

    Và sự mang lại an ninh cho loài chim, thú dữ và những động vật khác ở đất Alharam là để tâm hồn thư thái và niềm tin hoàn thiện. Allah, Đấng Tối Cao phán:

    ﴿ لِمَن كَانَ لَهُۥ قَلۡبٌ أَوۡ أَلۡقَى ٱلسَّمۡعَ وَهُوَ شَهِيدٞ ﴾ [سورة ق: 37]

    {Cho ai có một quả tim (lương tri), hoặc lắng tai nghe và là một nhân chứng.} (Chương 50 – Qaf, câu 37).

    Và một trong những điều cũng nói lên Makkah là vùng cấm linh thiêng đó là câu kinh nói về sự trừng phạt dành cho những ai có ý đồ xấu trong vùng đất này dù chưa thực hiện hành động xấu đó. Allah, Đấng Tối Cao phán:

    ﴿ وَمَن يُرِدۡ فِيهِ بِإِلۡحَادِۢ بِظُلۡمٖ نُّذِقۡهُ مِنۡ عَذَابٍ أَلِيمٖ ٢٥ ﴾ [سورة الحج: 25]

    {Và ai có ý định làm điều xúc phạm một cách sai quấy nơi đó thì TA sẽ cho y nếm một hình phạt đau đớn.} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 25).

    Và sự xúc phạm trong câu kinh có nghĩa là làm trái lệch với tôn giáo của Allah được Ngài qui định trong đó bao gồm: Shirk (tổ hợp) với Allah một thần linh trong nơi Alharam, phủ nhận Ngài, phạm vào điều cấm của Allah đã qui định, bỏ một nghĩa vụ mà Allah bắt buộc làm, vi phạm những điều thiêng liêng của Alharam, thậm chí một số học giả còn nói là bao gồm cả việc giữ lấy thực phẩm độc quyền tại Makkah.

    Quả thật, một số học giả nói rằng: Makkah được gọi với cái tên như vậy là bởi vì ý nghĩa của từ Makkah trong tiếng Ả rập là sự ngăn cản ai làm điều sai quấy.

    Và một trong những hồng phúc và thiêng liêng của Makkah là người tín đồ Muslim không được phép hướng mặt hoặc quay lưng hướng về nó lúc đi “vệ sinh”. Nabi e nói:

    « لاَ تَسْتَقْبِلُوا الْقِبْلَةَ بِغَائِطٍ ولاَ بَوْلٍ ولاَ تَسْتَدْبِرُوها وَلَكِنْ شَرِّقُوا أَوْ غَرِّبُوا » متفق عليه.

    “Đừng hướng mặt về Qiblah lúc đi đại tiện hay tiểu tiện, và cũng chớ quay lưng hướng về nó mà hãy hướng sang Đông và Tây.”. (Albukhari, Muslim).

    Và một trong các hồng phúc và thiêng liêng của Makkah là Allah sẽ ban ân phước cho những ai dâng lễ nguyện Salah ở trong đó nhiều hơn ở những nơi khác, như Nabi e đã nói:

    « صَلاَةٌ فِي مَسْجِدِيْ هذَا أَفْضَلُ مِنْ أَلْفِ صَلاَةٍ فِيمَا سِوَاهُ مِنَ الْمَسَاجِدِ إِلاَّ مَسْجِدَ الْكَعْبَةِ » رواه مسلم.

    “Dâng lễ nguyện Salah trong Thánh đường này của Ta (Thánh đường Annabawi ở Madinah) tốt hơn một ngàn lễ nguyện Salah trong các thánh đường khác trừ Thánh đường Ka’bah.” (Muslim).

    Và trong một lời dẫn khác, Nabi e nói:

    « صَلاَةٌ فِى مَسْجِدِى هَذَا أَفْضَلُ مِنْ أَلْفِ صَلاَةٍ فِيمَا سِوَاهُ إِلاَّ الْمَسْجِدَ الْحَرَامَ وَصَلاَةٌ فِى الْمَسْجِدِ الْحَرَامِ أَفْضَلُ مِنْ صَلاَةٍ فِيْ مَسْجِدِي هذا مِائَةِ صَلاَةٍ » رواه أحمد وابن حبان بإسنادٍ صحيح.

    “Dâng lễ nguyện Salah trong Thánh đường này (Thánh đường Annabawi ở Madinah) của Ta tốt hơn một ngàn lần lễ nguyện Salah trong các Thánh đường khác trừ Thánh đường Alharam (Thánh đường của ngôi đền Ka’bah ở Makkah), và dâng lễ nguyện Salah trong Thánh đường Alharam tốt hơn dâng lễ nguyện Salah trong Thánh đường này của Ta một trăm lần lễ nguyện.” (Ahmad, Ibnu Hibban với đường dẫn truyền xác thực và hợp lệ).

    Và ý nghĩa của Hadith vừa nêu trên là: một lễ nguyện Salah tại Thánh đường Alharam (Makkah) sẽ bằng một trăm ngàn lễ nguyện Salah tại các Thánh đường khác bởi vì một lễ nguyện Salah tại Thánh đường Annabawi bằng một ngàn lễ nguyện Salah trong khi một lễ nguyện Salah tại Alharam thì hơn Thánh đường Annabawi một trăm lần, tổng lại là một trăm ngàn lần.

    Do đó, các anh em đồng đạo hãy hình dung xem, quả thật hồng phúc của một lễ nguyện Salah trong một năm tại Makkah nếu tính ra sẽ bằng ba mươi lăm triệu bốn trăm ngàn lần so với các lễ nguyện Salah tại các nơi khác, rồi nếu chúng ta lấy tất cả số ngày trong năm tức khoảng ba trăm năm mưới bốn ngày nhân với một trăm ngàn thì sẽ được bao nhiều, và nếu chúng ta nhân thêm với có số năm lễ nguyện bắt buộc của một ngày trong một năm thì được con số khổng lồ thế nào. Subnallah, đó là ân phúc mà Allah muốn ban cho ai Ngài thích và Ngài là Đấng có biết bao hồng phúc vĩ đại.

    Và quả thật, giới học giả đã có sự tranh luận và bất đồng nhau về sự nhân thêm này: Phải chăng những hồng phúc này chỉ đặc biệt đối với trong phạm vi Thánh đường hay đối với toàn vùng Makkah?

    Và quan điểm được xem là đúng nhất – Allah mới là Đấng hiểu biết hơn ai hết –, đó là quan điểm của đại đa số học giả: Ân phúc được nhân lên là đối với toàn vùng Makkah chứ không chỉ giới hạn trong phạm vị Thánh đường không thôi.

    Đây chỉ là một số hông phúc trong các hồng phúc thiêng liêng của Makkah chứ không phải là toàn bộ.

    Allah, Đấng Tối Cao phán:

    ﴿ ۞جَعَلَ ٱللَّهُ ٱلۡكَعۡبَةَ ٱلۡبَيۡتَ ٱلۡحَرَامَ قِيَٰمٗا لِّلنَّاسِ وَٱلشَّهۡرَ ٱلۡحَرَامَ وَٱلۡهَدۡيَ وَٱلۡقَلَٰٓئِدَۚ ذَٰلِكَ لِتَعۡلَمُوٓاْ أَنَّ ٱللَّهَ يَعۡلَمُ مَا فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَمَا فِي ٱلۡأَرۡضِ وَأَنَّ ٱللَّهَ بِكُلِّ شَيۡءٍ عَلِيمٌ ٩٧ ٱعۡلَمُوٓاْ أَنَّ ٱللَّهَ شَدِيدُ ٱلۡعِقَابِ وَأَنَّ ٱللَّهَ غَفُورٞ رَّحِيمٞ ٩٨ مَّا عَلَى ٱلرَّسُولِ إِلَّا ٱلۡبَلَٰغُۗ وَٱللَّهُ يَعۡلَمُ مَا تُبۡدُونَ وَمَا تَكۡتُمُونَ ٩٩ قُل لَّا يَسۡتَوِي ٱلۡخَبِيثُ وَٱلطَّيِّبُ وَلَوۡ أَعۡجَبَكَ كَثۡرَةُ ٱلۡخَبِيثِۚ فَٱتَّقُواْ ٱللَّهَ يَٰٓأُوْلِي ٱلۡأَلۡبَٰبِ لَعَلَّكُمۡ تُفۡلِحُونَ ١٠٠ ﴾ [سورة المائدة: 97 - 100]

    {Allah làm cho Ka’bah, Ngôi đền thiêng, thành một chỗ đứng (dâng lễ nguyện) cho toàn nhân loại, và các tháng linh (để cúng tế) và các con vật tế (các con vật mang) tràng hoa để làm dấu (phân biệt). Như thế để cho các ngươi biết rằng Allah biết mọi điều trong các tầng trời và mọi điều dưới đất; và Allah biết hết mọi sự việc. Các ngươi hãy nên biết rằng Allah rất nghiêm khắc trong việc trừng phạt và rằng Allah hằng tha thứ và rất mực khoan dung. Nhiệm vụ của vị Thiên sứ chỉ là truyền đạt (Thông điệp của Allah). Nhưng Allah biết rõ điều các ngươi tiết lộ và điều các ngươi giấu giếm. Hãy bảo họ: “Vật bẩn thỉu và vật tốt sạch không có giá trị ngang nhau, dẫu rằng vô số vật bẩn thỉu làm cho Ngươi trầm trồ; bởi thế, hãy sợ Allah, hỡi những ai thông hiểu, để các ngươi có thể thành công”.} (Chương 5 – Al-Ma-idah, câu 97 – 100).

    بارَكَ اللهُ لِي وَلَكُمْ فِي الْقُرْآنِ الْعَظِيْمِ، وَنَفَعَنِي وَإِيَاكُمْ بِمَا فِيْهِ مِنَ الآيَاتِ وَالذِّكْرِ الْحَكِيْمِ، قَدْ قُلْتُ مَا قُلْتُ، إِنْ صَوَابًا فَمِنَ اللهِ، وَإِنْ خَطَأً فَمِنْ نَفْسِيْ وَالشَّيْطَانِ، وَأَسْتَغْفِرُ اللهَ إِنَهُ كاَنَ غفَّارًا.

    Cầu xin Allah ban phúc lành cho tôi và cho tất cả các anh em đồng đạo qua kinh Qur’an thiêng liêng và vĩ đại, xin Ngài hãy ban phúc lợi cho tôi và cho tất cả các anh em đồng đạo qua những răn dạy và hướng dẫn quí giá từ các Lời mặc khải của Qur’an.

    Quả thật, tôi đã nói những gì tôi đã nói, nếu đúng thì đó là từ Allah, còn nếu có sai sót thì đó là từ bản thân tôi và sự quấy nhiễu của Shaytan, và tôi cầu xin Allah tha thứ tội lỗi bởi quả thật Ngài là Đấng hằng tha thứ.

    Khutbah cuối

    اَلْحَمْدُ لِلهِ وَحَدَهُ، وَالصَّلاَةُ وَالسَّلاَمُ عَلىَ مَنْ لاَ نَبِيَّ بَعْدَهُ.

    Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng lên một mình Allah, cầu xin bằng an và phúc lành cho vị Nabi cuối cùng e.

    Này hỡi nhân loại!

    Quả thật, Allah đã làm cho vùng đất Makkah trở thành nơi cao quý, Ngài đã làm cho nó trở thành một Thành phố mẹ, một Qibah (hướng chung) cho toàn thể các tín đồ Muslim ở khắp mọi nơi trên mặt đất này, Ngài đã thừa nhận nó là một nơi vĩ đại và thiêng liêng bắt buộc mọi tín đồ Muslim phải giữ gìn an ninh và yên bình cho nó, và Ngài đã nâng giá trí của nó lên cao bắt mọi tín đồ phải tuyệt đối quý trọng nó một khi tiếp cận nó, Ngài bảo những tín đồ khi đến với nó phải luôn tuân thủ và chấp hành theo các nguyên tắc đạo đức và nghi thức lễ nghĩa mà Ngài đã qui định. Ngài phán:

    ﴿ ذَٰلِكَۖ وَمَن يُعَظِّمۡ حُرُمَٰتِ ٱللَّهِ فَهُوَ خَيۡرٞ لَّهُۥ عِندَ رَبِّهِۦۗ وَأُحِلَّتۡ لَكُمُ ٱلۡأَنۡعَٰمُ إِلَّا مَا يُتۡلَىٰ عَلَيۡكُمۡۖ فَٱجۡتَنِبُواْ ٱلرِّجۡسَ مِنَ ٱلۡأَوۡثَٰنِ وَٱجۡتَنِبُواْ قَوۡلَ ٱلزُّورِ ٣٠ حُنَفَآءَ لِلَّهِ غَيۡرَ مُشۡرِكِينَ بِهِۦۚ وَمَن يُشۡرِكۡ بِٱللَّهِ فَكَأَنَّمَا خَرَّ مِنَ ٱلسَّمَآءِ فَتَخۡطَفُهُ ٱلطَّيۡرُ أَوۡ تَهۡوِي بِهِ ٱلرِّيحُ فِي مَكَانٖ سَحِيقٖ ٣١ ﴾ [سورة الحج: 30، 31]

    {Đó (là việc thi hành Hajj). Và ai tôn trọng những giới cấm của Allah thì là điều tốt cho y đối với Thượng Đế của y. Và (Allah) cho phép các ngươi (dùng thịt của) những con thú nuôi (trong lúc thi hành Hajj) ngoại trừ những con thú nào đã được đọc ra cho các ngươi. Do đó, hãy tránh sự ô uế của việc thờ cúng những tượng thần và hãy tránh lời nói giả dối.

    Chính trực với Allah trong đức tin, không tổ hợp (gán) những thần linh cùng với Ngài. Và ai tổ hợp (gán) những thần linh cùng với Allah thì chẳng khác nào như bị rơi từ trên cao xuống rồi bị chim chóc chụp bắt đứa đi xa hoặc như bị một trận gió ào đến quét mang đi đến một nơi xa xôi.} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 30, 31).

    Và những ai đến thực hiện Hajj tại ngôi nhà của Allah, Alharam, thì hãy nên lưu ý là chớ đừng biểu hiện những hành vi xấu và không đạo đức với mọi người xung quanh hoặc chớ đừng bẻ gãy lòng tôn kính của mình đối với ngôi nhà của Allah, hoặc trong truyền dạy các nghi thức Hajj chớ đứng khiến sự tranh luận trở nên bất hòa và gây gổ, bởi Allah, Đấng Tối Cao và Toàn Năng, phán:

    ﮋٱلۡحَجُّ أَشۡهُرٞ مَّعۡلُومَٰتٞۚ فَمَن فَرَضَ فِيهِنَّ ٱلۡحَجَّ فَلَا رَفَثَ وَلَا فُسُوقَ وَلَا جِدَالَ فِي ٱلۡحَجِّۗ ﮊ (سورة البقرة: 197)

    {Cuộc hành hương Hajj diễn ra trong những tháng được ấn định rõ. Bởi thế, người nào thực hiện cuộc hành hương Hajj trong những tháng đó thì chớ dâm dục, chớ làm điều sàm bậy, tội lỗi và chớ cãi vã trong thời gian làm Hajj.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 197).

    Và Nabi Muhammad e nói:

    «مَنْ حَجَّ فَلَمْ يَرْفُثْ وَلَمْ يَفْسُقْ رَجَعَ مِنْ ذُنُوْبِهِ كَيَوْمِ وَلَدَتْ أُمِّهِ» (متفق عليه)

    “Ai làm Hajj mà không dâm dục, không làm điều tội lỗi thì sẽ trở lại y như thuở mới lọt lòng mẹ” (Albukhari, Muslim).

    Do đó, này hỡi những tín đồ đi thực hiện Hajj! Các anh chị em hãy thật cẩn trọng, thật cảnh giác, hãy cẩn trọng với những lời nói và hành vi dâm dục, hãy cẩn trọng với những việc làm tội tỗi và sai quấy, hãy cẩn trọng với việc tranh cãi và gây gổ nhau trong thời gian làm Hajj, bởi Hajj là biểu tượng của Allah được Ngài đặt trong một vùng đất mẹ thiêng liêng nên những người bề tôi ngoan đạo cần phải thể hiện lòng tôn kính. Allah, Đấng Tối Cao phán:

    ﴿ ذَٰلِكَۖ وَمَن يُعَظِّمۡ شَعَٰٓئِرَ ٱللَّهِ فَإِنَّهَا مِن تَقۡوَى ٱلۡقُلُوبِ ٣٢ ﴾ [سورة الحج: 32]

    {Đó (là những nguyên tắc lễ nghĩa trong Hajj). Và ai tôn trong các biểu hiệu của Allah thì đó mới là lòng kính sợ Allah.} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 32).

    Hỡi quý đồng đạo thân hữu!

    Các anh chị em hãy cùng Salawat (cầu xin bằng và phúc lành) đến vị Nabi của chúng ta: Muhammad bin Abdullah, vị được trao cho cái hồ Alhawdh và được quyền xin ân xá và Ngày Phán xét. Quả thật, Allah đã ra lệnh cho tất cả chúng ta và chính Ngài đã bắt đầu cho việc làm đó, và các Thiên thần của Ngài cũng được lệnh thực hiện việc làm này, Ngài phán:

    ﴿ إِنَّ ٱللَّهَ وَمَلَٰٓئِكَتَهُۥ يُصَلُّونَ عَلَى ٱلنَّبِيِّۚ يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ صَلُّواْ عَلَيۡهِ وَسَلِّمُواْ تَسۡلِيمًا ٥٦ ﴾ (سورة الأحزاب: 56)

    {Quả thật, Allah và các Thiên thần luôn Salawat cho Nabi. Này hỡi những ai có đức tin! Hãy Salawat và cầu xin bằng an cho Y.} (Chương 33 – Al’Ahzab, câu 56).

    اللهم صَلِّ وَسَلِّمْ وَزِدْ وَبَارِكْ عَلَى عَبْدِكَ وَرَسُوْلِكَ مُحَمَّدٍ صَاحِبِ الوَجْهِ الْأَنْوَرِ، وَالْجَبِيْنِ الْأَزْهَرِ، وَارْضَ اللهم عَنْ خُلَفَائِهِ الْأَرْبَعَة: أَبِيْ بَكْرٍ، وَعُمَر، وَعُثْمَان، وَعَليٍّ، وَعَنْ سَائِرِ صَحَابَةِ نَبِيِّكَ مُحَمَّدٍ e ، وَعَنِ التَّابِعِيْنَ وَمَنْ تَبِعَهُمْ بِإِحْسَانٍ إِلىَ يَوْمِ الدِّيْنِ، وَعَنَّا مَعَهُمْ بِعَفْوِكَ وَجَوْدِكَ وَكِرَمِكَ يَا أَرْحَمَ الرَّاحِمِيْنَ.

    اللهم أَعِزَّ الْإِسْلاَمِ وَالْمُسْلِمِيْنَ، اللهم أَعِزَّ الْإِسْلاَمِ وَالْمُسْلِمِيْنَ، اللهم أَعِزَّ الْإِسْلاَمِ وَالْمُسْلِمِيْنَ، وَاخْذُلِ الشِّرْكَ وَالْمُشْرِكِيْنَ، اللهم انْصُرْ دِيْنَكَ وَكِتَابَكَ وَسُنَّةَ نَبِيْكَ وَعِبَادِكَ الْمُؤْمِنِيْنَ.

    اللهم فَرِّجْ هَمَّ الْمَهْمُوْمِيْنَ مِنَ الْمُسْلِمِيْنَ، وَنَفِّسْ كُرْبَ الْمَكَرُوْبِيْنَ، وَاقْضِ الدَّيْنَ عَنِ الْمُدَيْنِيْنَ، وَاشْفِ مَرْضَانَا وَمَرْضَى الْمُسْلِمَيْنَ، وسَلِّمِ الْحُجَّاجَ وَالْمُسَافِرِيْنَ، بِرَحْمَتِكَ يَا أَرْحَمَ الرَّاحِمِيْنَ.

    اللهم آمِنَّا فِيْ أَوْطَانِنَا، وَأَصْلِحْ أَئِمَّتَنَا وَوِلَاةَ أُمُوْرِنَا، وَاجْعَلْ وِلاَيَتَنَا فِيْمَنْ خَافَكَ وَاتَقَاكَ، وَاتْبَعَ رَضَاكَ يَا رَبَّ الْعَالَمِيْنَ.

    اللهم وَفِّقْ وَلِيَّ أَمْرِنَا لِمَا تُحِبُّهُ وَتَرْضَاهُ مِنَ الْأَقْوَالِ وَالْأَعْمَالِ يَا حَيٌّ يَا قَيُّوْم، اللهم أَصْلِحْ لَهُ بَطَانَتَهُ يَا ذَا الْجَلاَلِ وَالْإِكْرَامِ.

    اللهم أَنْتَ اللهُ لاَ إله إِلاَّ أَنْتَ، أَنْتَ الْغَنِيُّ وَنَحْنُ الْفُقَرَاء، أَنْزِلْ عَلَيْنَا الْغَيْثَ وَلاَ تَجْعَلْنَا مِنَ الْقَانِطِيْنَ، اللهم أَنْتَ اللهُ لاَ إله إِلاَّ أَنْتَ، أَنْتَ الْغَنِيُّ وَنَحْنُ الْفُقَرَاء، أَنْزِلْ عَلَيْنَا الْغَيْثَ وَلاَ تَجْعَلْنَا مِنَ الْقَانِطِيْنَ، اللهم أَنْتَ اللهُ لاَ إله إِلاَّ أَنْتَ، أَنْتَ الْغَنِيُّ وَنَحْنُ الْفُقَرَاء، أَنْزِلْ عَلَيْنَا الْغَيْثَ وَلاَ تَجْعَلْنَا مِنَ الْقَانِطِيْنَ، اللهم أَنْزِلْ عَلَيْنَا الْغَيْثَ وَلاَ تَجْعَلْنَا مِنَ الْقَانِطِيْنَ.

    ﴿ رَبَّنَا آتِنَا فِي الدُّنْيَا حَسَنَةً وَفِي الْآخِرَةِ حَسَنَةً وَقِنَا عَذَابَ النَّارِ ﴾ [البقرة : 201].

    سُبْحَانَ رَبَّنَا رَبُّ الْعِزَّةِ عَمَّا يَصِفُوْنَ، وَسَلاَمٌ عَلىَ الْمُرْسَلِيْنَ، وَآخِرُ دَعْوَانَا أَنِ الْحَمْدُ لِلهِ رَبِّ الْعَالَمِيْنَ.

    Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy ban sự bằng an và phúc lành cho người bề tôi của Ngài và cũng là vị Thiên sứ của Ngài: Muhammad, vị với gương mặt đầy ánh hào quang. Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy hài lòng với bốn vị Khalif chính trực: Abu Bakr, Umar, Uthman, và Ali, cùng với các vị Sahabah của vị Nabi của Ngài cũng những những ai đi theo họ cho trên những điều tốt đẹp cho đến Ngày Phán xét cuối cùng, và xin Ngài hãy ban sự bằng an và phúc lành cho chúng con bởi sự tha thứ và lòng khoan dung của Ngài, ôi Đấng có lòng thướng xót nhất!

    Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy làm vững mạnh cho Islam và những tín đồ Muslim, Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy làm vững mạnh cho Islam và những tín đồ Muslim, Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy làm vững mạnh cho Islam và những tín đồ Muslim; lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy hạ thấp sự đa thần và những kẻ tôn thờ đa thần; lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy phù hộ và ban thắng lợi cho tôn giáo của Ngài, Kính sách của Ngài, Sunnah của vị Nabi của Ngài và cho các bề tôi có đức tin của Ngài.

    Lạy Thượng Đế, xin Ngài giải tỏa những nỗi khổ và phiền muộn cho những người Muslim, xin Ngài cứu giúp họ tránh khỏi những tại họa và nạn kiếp, xin Ngài giải quyết nợ cho những người đang mắc nợ, xin Ngài hãy làm khỏi bệnh cho những bệnh nhân Muslim, xin Ngài hãy ban sự bằng an cho những người đi làm Hajj và những người đi đường xa, dưới lòng thương xót của Ngài, ôi Đấng có lòng thương xót nhất!

    Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy ban sự an toàn cho xứ sở và quê hương của chúng con, xin Ngài hãy cải thiện các vị Imam, các vị lãnh đạo các vụ việc của chúng con, xin Ngài hãy đặt trong hệ thống lãnh đạo và trông coi chúng con những người biết sợ Ngài và luôn tuân theo sự hài lòng của Ngài, ôi Thượng Đế của toàn vũ trụ và muôn loài!

    Lạy Thượng Đế, Ngài là Allah, không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài, Ngài là Đấng giàu có còn chúng con là những kẻ bần hàn và nghèo khó, xin Ngài hãy ban cho chúng con bổng lộc và hồng phúc và đừng bỏ mặc chúng con trong sự đói khổ và tuyệt vọng, Lạy Thượng Đế, Ngài là Allah, không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài, Ngài là Đấng giàu có còn chúng con là những kẻ bần hàn và nghèo khó, xin Ngài hãy ban cho chúng con bổng lộc và hồng phúc và đừng bỏ mặc chúng con trong sự đói khổ và tuyệt vọng, Lạy Thượng Đế, Ngài là Allah, không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài, Ngài là Đấng giàu có còn chúng con là những kẻ bần hàn và nghèo khó, xin Ngài hãy ban cho chúng con bổng lộc và hồng phúc và đừng bỏ mặc chúng con trong sự đói khổ và tuyệt vọng, lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy ban cho chúng con bổng lộc và hồng phúc và đừng bỏ mặc chúng con trong sự đói khổ và tuyệt vọng!

    {Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài hãy ban cho chúng con điều tốt đẹp trên thế gian và điều tốt đẹp ở Đời Sau và xin Ngài hãy cứu rỗi chúng con thoát khỏi sự trừng phạt nơi Hỏa ngục!} (Chương 2 – Albaqarah, câu 201).

    Vinh quang tháy Thượng Đế của chúng con, Ngài là Thượng Đế Toàn Năng và Quyền Lực hơn những gì mà họ đã gán cho Ngài, cầu xin sự bằng an cho tất cả các vị Thiên sứ, và cuối lời xin nói lời tán dương và tạ ơn Allah, Đấng Chủ tể của toàn vũ trụ và muôn loài!!!

    d f