Kiên Nhẫn & Chịu Đựng
Các danh mục
Full Description
Kiên Nhẫn & Chịu Đựng
] Tiếng Việt – Vietnamese – فيتنامية [
Biên soạn
Abu Zaytune Usman Ibrahim
Dịch thuật: Abu Hisaan Ibnu Ysa
2014 - 1435
الصبر
« باللغة الفيتنامية »
جمع وترتيب: أبو زيتون عثمان إبراهيم
ترجمة: أبو حسان محمد زين بن عيسى
2014 - 1435
إِنَّ الحَمْدَ لِلَّهِ نَحْمَدُهُ وَنَسْتَعِيْنُهُ وَنَسْتَغْفِرُهُ، وَنَعُوْذُ بِاللهِ مِنْ شُرُوْرِ أَنْفُسِنَا وَمِنْ سَيِّئَاتِ أَعْمَالِنَا، مَنْ يَهْدِ اللهُ فَلاَ مُضِلَّ لَهُ، وَ مَنْ يُضْلِلْ فَلاَ هَادِيَ لَهُ. وَأَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَحْدَهُ لَا شَرِيكَ لَهُ وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ
﴿يَاأَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا اتَّقُوا اللَّهَ حَقَّ تُقَاتِهِ وَلا تَمُوتُنَّ إِلا وَأَنْتُمْ مُسْلِمُونَ﴾ [سورة آل عمران : 102]
﴿يَاأَيُّهَا النَّاسُ اتَّقُوا رَبَّكُمُ الَّذِي خَلَقَكُمْ مِنْ نَفْسٍ وَاحِدَةٍ وَخَلَقَ مِنْهَا زَوْجَهَا وَبَثَّ مِنْهُمَا رِجَالا كَثِيرًا وَنِسَاءً وَاتَّقُوا اللَّهَ الَّذِي تَسَاءَلُونَ بِهِ وَالأرْحَامَ إِنَّ اللَّهَ كَانَ عَلَيْكُمْ رَقِيبًا﴾ [سورة النساء : 1]
﴿يَاأَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا اتَّقُوا اللَّهَ وَقُولُوا قَوْلا سَدِيدًا يُصْلِحْ لَكُمْ أَعْمَالَكُمْ وَيَغْفِرْ لَكُمْ ذُنُوبَكُمْ وَمَنْ يُطِعِ اللَّهَ وَرَسُولَهُ فَقَدْ فَازَ فَوْزًا عَظِيمًا﴾ [ سورة الأحزاب : 70 ، 71].
Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng lên Allah! Bầy tôi xin ca ngợi và tán dương Ngài, bầy tôi cầu xin Ngài phù hộ và che chở, bầy tôi cầu xin Ngài tha thứ tội lỗi, bầy tôi xin quay về sám hối với Ngài, và bầy tôi cầu xin Ngài giúp bầy tôi tránh khỏi mọi điều xấu từ bản thân bầy tôi và mọi điều xấu từ việc làm và hành vi của bầy tôi. Quả thật, người nào được Allah hướng dẫn sẽ không bao giờ bị lạc lối, còn người nào bị Ngài làm cho lạc lối thì sẽ không bao giờ tìm thấy sự hướng dẫn. Bề tôi xin chứng nhận rằng không có Thượng Đế đích thực nào ngoài Allah, Ngài là Thượng Đế duy nhất không có đối tác cùng Ngài, và bề tôi xin chứng nhận Muhammad là người bề tôi và là vị Sứ giả của Ngài.
{Này hỡi những người có đức tin! Hãy kính sợ Allah với lẽ mà Ngài phải đáng được kính sợ và các ngươi chớ đừng chết ngoại trừ các ngươi đã là những người Muslim (qui phục Ngài).} (Chương 3 – Ali ‘Imran, câu 102).
{Này hỡi nhân loại! Hãy kính sợ Thượng Đế của các ngươi, Đấng đã tạo hóa các ngươi từ một cá thể duy nhất (Adam) và từ Y Ngài đã tạo ra người vợ của Y (Hauwa) rồi từ hai người họ Ngài đã rải ra vô số đàn ông và đàn bà (trên khắp trái đất). Và hãy kính sợ Allah, Đấng mà các người đòi hỏi (quyền hạn) lẫn nhau và hãy (kính trọng) dạ con bởi vì quả thật Allah luôn theo dõi các ngươi.} (Chương 4 - Annisa’, câu 1).
{Hỡi những người có đức tin! Hãy kính sợ Allah mà hãy nói lời trung thực và ngay thẳng, rồi Ngài sẽ cải thiện hành động của các ngươi và tha thứ tội lỗi cho các ngươi. Và người nào tuân lệnh Allah và Thiên sứ của Ngài thì chắc chắn sẽ được thành công vô cùng to lớn.} (Chương 33 – Al-Ahzab, câu 70, 71).
Con người, những ai vô đức tin thường rất ghét cái chết bởi vì họ sợ khi họ chết đi họ không biết chắc sẽ về đâu và gặp những gì ở cõi chết hoặc họ không muốn từ giã cõi trần nơi mà họ đang tận hưởng và vui thú với những khoái lạc tạm bợ nhưng cứ tưởng lâu dài .. chỉ những người có đức tin nơi Allah, có đức tin nơi cõi Đời Sau thì họ luôn trong tư thế sẵn sàng đối diện với cái chết bởi vì họ ý thức được rằng đấy là điều kiên định phải đến với họ và không một linh hồn nào có thể tránh khỏi.
Và người có đức tin luôn ý thức rằng chết là sự trở về trình diện với Thượng Đế của họ và họ luôn ghi nhớ lời di huấn của Nabi e:
«مَنْ أَحَبَّ لِقَاءَ اللهَ أَحَبَّ اللهُ لِقَاءَهُ ، وَمَنْ كَرِهَ لِقَاءَ اللهَ كَرِهَ اللهُ لِقَاءَهُ»
“Ai yêu thích gặp Allah thì Allah yêu thích gặp người đó, còn ai ghét gặp Allah thì Allah ghét gặp người đó” (Albukhari, Muslim).
Allah I phán về tình trạng của hai thành phần trong nhân loại: thành phần chỉ yêu thích cõi trần thế và không nghĩ gì đến cuộc sống cõi Đời Sau và một thành phần sẽ gặt hái được niềm vui bởi vì họ luôn tin vào một ngày trở về với Allah:
﴿كَلَّا بَلۡ تُحِبُّونَ ٱلۡعَاجِلَةَ ٢٠ وَتَذَرُونَ ٱلۡأٓخِرَةَ ٢١ وُجُوهٞ يَوۡمَئِذٖ نَّاضِرَةٌ ٢٢ إِلَىٰ رَبِّهَا نَاظِرَةٞ ٢٣ وَوُجُوهٞ يَوۡمَئِذِۢ بَاسِرَةٞ ٢٤ تَظُنُّ أَن يُفۡعَلَ بِهَا
فَاقِرَةٞ ٢٥ كَلَّآ إِذَا بَلَغَتِ ٱلتَّرَاقِيَ ٢٦ وَقِيلَ مَنۡۜ رَاقٖ ٢٧ وَظَنَّ أَنَّهُ ٱلۡفِرَاقُ ٢٨ وَٱلۡتَفَّتِ ٱلسَّاقُ بِٱلسَّاقِ ٢٩ إِلَىٰ رَبِّكَ يَوۡمَئِذٍ ٱلۡمَسَاقُ ٣٠﴾ [سورة القيامة: 20 - 30]
{Không, quả thật các ngươi thường yêu thích đời sống trần tục và quên lãng cuộc sống Đời Sau. Ngày hôm đó, sẽ có những gương mặt sáng ngời nhìn ngắm Thượng Đế của họ trong niềm vui sướng, và cũng vào ngày hôm đó sẽ có những gương mặt buồn thảm nhăn nhó vì lo nghĩ về một tai họa khủng khiếp đang chờ họ. Không! Khi hồn lên đến tận xương quai xanh, và có tiếng bảo: Ai là thầy thuốc cứu y đây? Và y nghĩ rằng mình thực sự phải biệt ly, và ống chân này nhập vào ống chân nọ, đưa y về với Thượng Đế của Ngươi vào ngày đó.} (Chương 75 – Al-Qiyamah, câu 20 - 30).
Một người đàn ông sống vùng sa mạc sau một đêm giông bảo đã mất đi tất cả người thân trong gia đình, mất hết tất cả vật nuôi và tài sản, riêng anh ta thì bị mất đi đôi mắt do con lạc đà đã giẫm lên trong trận bảo. Anh ta được cứu và mang đến chỗ của một vị Khalif, vị Khalif rất buồn và cảm thương cho hoàn cảnh của anh ta .. vị Khalif hỏi anh ta: anh cảm thấy thế nào? Anh ta nói: Thề bởi Allah, tôi chẳng cảm thấy điều gì ngoài sự hài lòng và chấp nhận sự an bài của Ngài.
Đây mới đích thực là Sabar của một con người có đức tin nơi Allah, đây mới đích thực là người sẽ được hướng dẫn, rồi đây y sẽ được Allah đền bù xứng đáng bởi những gì mà y đã Sabar vì Ngài. Ngài I phán:
﴿ٱلَّذِينَ إِذَآ أَصَٰبَتۡهُم مُّصِيبَةٞ قَالُوٓاْ إِنَّا لِلَّهِ وَإِنَّآ إِلَيۡهِ رَٰجِعُونَ ١٥٦ أُوْلَٰٓئِكَ عَلَيۡهِمۡ صَلَوَٰتٞ مِّن رَّبِّهِمۡ وَرَحۡمَةٞۖ وَأُوْلَٰٓئِكَ هُمُ ٱلۡمُهۡتَدُونَ ١٥٧﴾ [سورة البقرة: 156، 157]
{Những ai khi gặp phải thiên tai sẽ nói: “Quả thật, chúng tôi là của Allah và chúng tôi chắc chắn phải quay trở về với Ngài”. Họ là những người sẽ nhận Phúc lành và sự Khoan dung của Thượng Đế của họ và họ là những người được hướng dẫn (đúng chính đạo).} Al-Baqarah: 156 - 157 (Chương 2).
Trong một Hadith Qudsi, Nabi e nói:
«إِذَا مَاتَ وَلَدُ الْعَبْدِ قَالَ اللهُ لِمَلاَئِكَتِهِ قَبَضْتُمْ وَلَدَ عَبْدِى. فَيَقُولُونَ نَعَمْ. فَيَقُولُ قَبَضْتُمْ ثَمَرَةَ فُؤَادِهِ. فَيَقُولُونَ نَعَمْ. فَيَقُولُ مَاذَا قَالَ عَبْدِى فَيَقُولُونَ حَمِدَكَ وَاسْتَرْجَعَ. فَيَقُولُ اللهُ ابْنُوا لِعَبْدِى بَيْتًا فِى الْجَنَّةِ وَسَمُّوهُ بَيْتَ الْحَمْدِ»
“Khi nào đứa con của một người bề tôi chết, Allah sẽ phán với các Thiên thần của Ngài: Các ngươi đã rút hồn đứa con của người bề tôi của TA? Họ đáp: Thưa vâng. Ngài phán: Các ngươi đã rút lấy đi trái quả trong trái tim của y. Họ đáp: Thưa vâng. Ngài phán: Thế người bề tôi của TA đã nói gì? Họ đáp: Thưa, y đã ca ngợi và hài lòng với việc quay về với Ngài. Thế là Allah phán: Các ngươi hãy dựng lên cho người bề tôi của TA một ngôi nhà trong Thiên Đàng và hãy gọi đó là ngôi nhà Al-Hamd” (Tirmizhi, và Ahmad).
Đúng vậy, người nào biết Sabar trước những tai họa mà Allah đã giáng xuống cho y thì y là người được Ngài hướng dẫn và vào Ngày Sau họ sẽ được các Thiên thần chào đón nơi Thiên Đàng với lời chào Salam bằng an và bằng an. Allah I phán:
﴿مَآ أَصَابَ مِن مُّصِيبَةٍ إِلَّا بِإِذۡنِ ٱللَّهِۗ وَمَن يُؤۡمِنۢ بِٱللَّهِ يَهۡدِ قَلۡبَهُۥۚ﴾ [سورة التغابن: 11]
{Không một tai họa nào xảy ra mà không do phép của Allah. Và ai tin tưởng Allah thì Ngài sẽ hướng dẫn tấm lòng của y.} Al-Taghabun: 11 (Chương 64).
﴿وَٱلۡمَلَٰٓئِكَةُ يَدۡخُلُونَ عَلَيۡهِم مِّن كُلِّ بَابٖ ٢٣ سَلَٰمٌ عَلَيۡكُم بِمَا صَبَرۡتُمۡۚ فَنِعۡمَ عُقۡبَى ٱلدَّارِ ٢٤﴾ [سورة الرعد: 23، 24]
{Và các thiên thần vào chào đón họ từ mỗi cánh cổng (Thiên Đàng): Chào an lành đến quí vị về những điều mà quí vị đã kiên nhẫn chịu đựng. Bởi thế, đây là Ngôi nhà cuối cùng thật hạnh phúc dành cho quí vị !} Al-Rad: 23, 24 (Chương 13).
Hỡi những ai có đức tin, hỡi những ai tin nơi Allah và cõi Đời Sau, chúng ta hãy cùng lắng nghe lời phán của Allah I và lời di huấn của Thiên sứ Muhammad e về tinh thần Sabar cũng như những người biết Sabar:
{ Những lời phán của Allah I:
﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ ٱصۡبِرُواْ وَصَابِرُواْ وَرَابِطُواْ وَٱتَّقُواْ ٱللَّهَ لَعَلَّكُمۡ تُفۡلِحُونَ ٢٠٠﴾ [آل عمران: 200].
{Hỡi những ai có đức tin! Hãy tuyệt đối kiên nhẫn và hãy kiên quyết chịu đựng và hãy kính sợ Allah, mong rằng các ngươi được thành đạt.} Ali ‘Imran: 200 (Chương 3).
﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ ٱسۡتَعِينُواْ بِٱلصَّبۡرِ وَٱلصَّلَوٰةِۚ إِنَّ ٱللَّهَ مَعَ ٱلصَّٰبِرِينَ ١٥٣﴾ [سورة البقرة: 153]
{Này hỡi những người có đức tin! Hãy cầu xin sự cứu giúp (của Allah) bằng sự kiên nhẫn và lễ nguyện Salah. Quả thật, Allah luôn ở cùng với những ai biết kiên nhẫn chịu đựng.} Al-Baqarah: 153 (Chương 2).
﴿وَلَنَبۡلُوَنَّكُم بِشَيۡءٖ مِّنَ ٱلۡخَوۡفِ وَٱلۡجُوعِ وَنَقۡصٖ مِّنَ ٱلۡأَمۡوَٰلِ وَٱلۡأَنفُسِ وَٱلثَّمَرَٰتِۗ وَبَشِّرِ ٱلصَّٰبِرِينَ ١٥٥﴾ [سورة البقرة: 155]
{Và quả thật TA (Allah) sẽ thử thách các ngươi với những điều sợ hãi, sự đọi khát, mất mát tài sản, thiệt hại tính mạng và thất bát mùa màng và hoa quả. Nhưng hãy báo tin vui cho những người biết kiên nhẫn.} Al-Baqarah: 155 (Chương 2).
﴿إِنَّمَا يُوَفَّى ٱلصَّٰبِرُونَ أَجۡرَهُم بِغَيۡرِ حِسَابٖ ١٠ ﴾ [سورة الزمر: 10]
{Chỉ những người kiên nhẫn chịu đựng mới hưởng trọn phần thưởng của mình, không cần phải tính sổ.} Al-Zumar: 10 (Chương 39).
﴿وَلَمَن صَبَرَ وَغَفَرَ إِنَّ ذَٰلِكَ لَمِنۡ عَزۡمِ ٱلۡأُمُورِ ٤٣﴾ [سورة الشورى: 43]
{Và chắc chắn ai kiên nhẫn và biết tha thứ thì quả thật đó mới là sự quyết định của mọi việc.} Al-Shura: 43 (Chương 42).
﴿وَلَنَبۡلُوَنَّكُمۡ حَتَّىٰ نَعۡلَمَ ٱلۡمُجَٰهِدِينَ مِنكُمۡ وَٱلصَّٰبِرِينَ وَنَبۡلُوَاْ أَخۡبَارَكُمۡ ٣١﴾ [سورة محمد : 31]
{Và chắc chắn TA thử thách các ngươi cho đến khi TA biết rõ ai là người trong các ngươi đã chiến đấu anh dũng và kiên trì, và TA thử thách tình trạng của các ngươi.} Muhammad: 31 (Chương 47).
﴿وَٱللَّهُ يُحِبُّ ٱلصَّٰبِرِينَ ﴾ [سورة آل عمران: 146]
{Và Allah luôn yêu thương những người biết kiên nhẫn và chịu đựng.} Ali ‘Imran: 146 (Chương 3).
{ Các lời di huấn của Thiên sứ Muhammad e:
«الطُّهُورُ شَطْرُ الإِيمَانِ وَالْحَمْدُ لِلهِ تَمْلأُ الْمِيزَانَ. وَسُبْحَانَ اللهِ وَالْحَمْدُ لِلَّهِ تَمْلآنِ - أَوْ تَمْلأُ - مَا بَيْنَ السَّمَوَاتِ وَالأَرْضِ وَالصَّلاَةُ نُورٌ وَالصَّدَقَةُ بُرْهَانٌ وَالصَّبْرُ ضِيَاءٌ وَالْقُرْآنُ حُجَّةٌ لَكَ أَوْ عَلَيْكَ كُلُّ النَّاسِ يَغْدُو فَبَائِعٌ نَفْسَهُ فَمُعْتِقُهَا أَوْ مُوبِقُهَا»
“Giữ vệ sinh là một phần của đức tin Iman, lời ‘Alhamdulillah’ sẽ làm đầy chiếc cân, lời “subha-nallah” và “Alhamdulillah” sẽ phủ đầy trời đất, lễ nguyện salah sẽ là ánh hào quang, Sadaqah sẽ là bằng chứng, Sabar sẽ là ánh sáng và Kinh Qura'n sẽ là lời biện hộ hoặc là lời tố cáo Quả thật, mỗi con người cứ ra đi vào buổi sáng để bán linh hồn của mình hoặc là y sẽ giải thoát cho nó hoặc y sẽ hủy diệt nó” (Muslim).
Ông Abu Huroiroh t thuật lai rằng Thiên sứ của Allah e nói:
«يَقُولُ اللهُ تَعَالَى مَا لِعَبْدِى الْمُؤْمِنِ عِنْدِى جَزَاءٌ ، إِذَا قَبَضْتُ صَفِيَّهُ مِنْ أَهْلِ الدُّنْيَا ، ثُمَّ احْتَسَبَهُ إِلاَّ الْجَنَّةُ»
“Allah, Đấng Tối Cao phán rằng: Phần thưởng mà TA dành cho người bề tôi của TA ở nơi TA khi mà TA đã lấy mất đi người thân thương nhất của y không gì khác là hơn Thiên Đàng” (Albukhari).
Ông Anas bin Malik t thuật lại rằng Nabi e nói:
«إِنَّ اللهَ قَالَ: إِذَا ابْتَلَيْتُ عَبْدِى بِحَبِيبَتَيْهِ فَصَبَرَ عَوَّضْتُهُ مِنْهُمَا الْجَنَّةَ»
“Quả thật Allah – Đấng Tối Cao phán: Khi TA giáng họa lấy đi đôi mắt người bề tôi của TA nhưng y biết kiên nhẫn chịu đựng thì TA sẽ đền bù lại cho y Thiên Đàng” (Albukhari).
Ông Ataa' bin Abu Rabaah t thuật lại rằng ông Ibn Abbas t đã từng bảo ông: Anh có muốn tôi chỉ cho ông thấy một người phụ nữ sẽ là cư dân nơi Thiên Đàng không? Tôi trả lời có. Ông ấy nói: Người phụ nữ da đen này đã đến gặp Nabi e và bảo: Quả thật tôi bị chứng động kinh và tôi thường cởi bỏ quần áo của mình mỗi khi phát bệnh, xin Người hãy cầu xin Allah cho tôi. Nabi e nói:
«إِنْ شِئْتِ صَبَرْتِ وَلَكِ الْجَنَّةُ وَإِنْ شِئْتِ دَعَوْتُ اللهَ أَنْ يُعَافِيَكِ»
“Nếu cô kiên nhẫn chịu đựng thì cô sẽ được Thiên Đàng còn nếu cô muốn cầu xin tôi sẽ cầu xin Allah cho cô khỏi bệnh”. Người phụ nữ nói: Tôi sẽ kiên nhẫn chịu đựng, nhưng quả thật tôi hay cởi bỏ quần áo trên người mỗi khi phát bệnh vậy xin Người hãy cầu xin Allah đừng để tôi cởi bỏ quần áo khỏi người nữa và Nabi e đã cầu xin cho nàng. (Albukhari, Muslim).
Ông Abu Saeed Al-Khudri t và ông Abu Huroiroh t thuật lại rằng Nabi e nói:
«مَا يُصِيبُ الْمُسْلِمَ مِنْ نَصَبٍ وَلاَ وَصَبٍ وَلاَ هَمٍّ وَلاَ حُزْنٍ وَلاَ أَذًى وَلاَ غَمٍّ حَتَّى الشَّوْكَةِ يُشَاكُهَا ، إِلاَّ كَفَّرَ اللهُ بِهَا مِنْ خَطَايَاهُ»
“Không một điều gì người muslim gặp phải từ những sự khổ cực, đau bệnh, buồn phiền cũng như những rủi ro mà không được Allah xóa đi tội lỗi cho dù chỉ là việc đạp phải một cái gai đi chăng nữa” (Albukhari, Muslim).
Ông Ibn Mas-ud t thuật lại, ông nói: Tôi vào thăm Nabi e khi Người bị sốt nặng và tôi nói: Thưa Thiên sứ của Allah, quả thật Người bị sốt nặng quá. Người e bảo: “Phải rồi, ta đang bị sốt bằng cả cơn sốt của hai người đấy”. Tôi nói: Thế thì có phải Người sẽ được hai ân phước chăng? Nabi e bảo:
«أَجَلْ ذَلِكَ كَذَلِكَ، مَا مِنْ مُسْلِمٍ يُصِيبُهُ أَذًى شَوْكَةٌ فَمَا فَوْقَهَا، إِلاَّ كَفَّرَ اللهُ بِهَا سَيِّئَاتِهِ ، كَمَا تَحُطُّ الشَّجَرَةُ وَرَقَهَا»
“Đúng thế đấy, mỗi người Muslim gặp họa từ một chiếc gai cho đến những gì to tát hơn đều được Allah xóa đi những tội lỗi cho y và làm cho các tội lỗi rơi khỏi cơ thể y giống như những chiếc lá rơi rụng từ cây của nó.” (Albukhari, Muslim).
Ông Abu Huroiroh t thuật lại rằng Thiên sứ của Allah e nói:
«مَنْ يُرِدِ اللهُ بِهِ خَيْرًا يُصِبْ مِنْهُ»
“Người nào mà Allah muốn ban cho y điều tốt thì Ngài khiến y gặp nạn” (Albukhari).
Ông Anas bin Malik t thuật lại Thiên sứ của Allah e nói:
«لاَ يَتَمَنَّيَنَّ أَحَدُكُمُ الْمَوْتَ مِنْ ضُرٍّ أَصَابَهُ ، فَإِنْ كَانَ لاَ بُدَّ فَاعِلاً فَلْيَقُلِ اللَّهُمَّ أَحْيِنِى مَا كَانَتِ الْحَيَاةُ خَيْرًا لِى ، وَتَوَفَّنِى إِذَا كَانَتِ الْوَفَاةُ خَيْرًا لِى»
“Khi ai đó trong các người gặp phải tai họa thì y đừng có ý muốn chết, mà nếu như hoàn cảnh khiến y phải làm thế thì y hãy nói:
اللَّهُمَّ أَحْيِنِى مَا كَانَتِ الْحَيَاةُ خَيْرًا لِى، وَتَوَفَّنِى إِذَا كَانَتِ الْوَفَاةُ خَيْرًا لِى
(Ollo-humma ahyini ma ka-nat alhaya-tu khoiron li wa tawaffani
i-zha ka-nat alwafa-tu khoiron li).
(Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy để bề tôi sống nếu cuộc sống là điều
tốt cho bề tôi và xin Ngài hãy để bề tôi chết nếu cái chết là điều tốt cho bề tôi)”. (Albukhari, Muslim)
Ông Anas bin Malik t thuật lại rằng Thiên sứ của Allah e nói:
«إِذَا أَرَادَ اللهُ بِعَبْدِهِ الْخَيْرَ عَجَّلَ لَهُ الْعُقُوبَةَ فِى الدُّنْيَا وَإِذَا أَرَادَ اللهُ بِعَبْدِهِ الشَّرَّ أَمْسَكَ عَنْهُ بِذَنْبِهِ حَتَّى يُوَفَّى بِهِ يَوْمَ الْقِيَامَةِ»
“Nếu Allah muốn điều tốt cho bề tôi của Ngài thì Ngài sẽ trừng phạt y ngay trên thế gian này còn nếu Allah muốn điếu xấu cho người bề tôi của Ngài thì Ngài sẽ trì hoãn việc trừng phạt đối với y đến tận ngày phán xét” (Tirmizhi, ông nói đây là hadith tốt).
Ông Abu Huroiroh t thuật lại rằng Nabi e nói:
«لَيْسَ الشَّدِيدُ بِالصُّرَعَةِ ، إِنَّمَا الشَّدِيدُ الَّذِى يَمْلِكُ نَفْسَهُ عِنْدَ الْغَضَبِ»
“Mạnh mẽ không phải là dùng sức làm vật ngã người khác mà mạnh mẽ là phải biết kìm hãm bản thân khi giận dữ" (Albukhari, Muslim).
Ông Abu Huroiroh t thuật lại, có một người đàn ông đến gặp Nabi e và nói với Người: Xin hãy cho tôi lời khuyên. Nabi e bảo: “Đừng tức giận”, Người lặp lại như vậy nhiều lần. (Albukhari).
Ông Abu Yahya Suhaib bin Sinaan t thuật lại rằng Thiên sứ của Allah e nói:
«عَجَبًا لأَمْرِ الْمُؤْمِنِ إِنَّ أَمْرَهُ كُلَّهُ خَيْرٌ وَلَيْسَ ذَاكَ لأَحَدٍ إِلاَّ لِلْمُؤْمِنِ إِنْ أَصَابَتْهُ سَرَّاءُ شَكَرَ فَكَانَ خَيْرًا لَهُ وَإِنْ أَصَابَتْهُ ضَرَّاءُ صَبَرَ فَكَانَ خَيْرًا لَهُ»
“Thật lạ thay cho mọi sự việc của người có đức tin rằng lúc nào họ cũng đạt được điều tốt lành và đặc ân này chi dành riêng cho họ: Khi họ gặp điều lành họ tạ ơn Thượng Đế thì Ngài sẽ ban thêm điều tốt và ghi nhận ân phước cho họ, còn khi họ gặp điều dữ nhưng họ biết kiên nhẫn chịu đựng thì họ cũng sẽ được đền bù điều tốt và được ghi nhận ân phước” (Muslim).