Sai Sót Trong Niềm Tin & Vài Lời Nhắc Quan Trọng
Các danh mục
Full Description
- Sai Sót Trong Niềm Tin & Vài Lời Nhắc Quan Trọng
- أخطاء في العقيدة وتنبيهات
مهمة
- Sai Sót Trong Niềm Tin([1])
- Các Qui Tắc Tạo Niềm Tin Vững Chãi([16])
- Xin mời tham khảo những thí dụ sau:
- Những Bài Học Quí Giá Liên Quan Đến Đức Tin Imam([37])
- Giới ﷻ’lama phân biệt hai câu nói:
- Giáo Lý Cầu Xin & Khấn Vái Các Thủ Lãnh Đã Khuất
- Lời Khuyên Chung Xoay Quanh Vài Tội Lỗi Thực Tại
- Kêu Gọi Mọi Người Tôn Thờ Mình:
- Tin Rằng Ngoài Allah Có Người Trợ Giúp, Gây Hại & Ban Lành Bệnh
- Chọn Môn Đăng Hộ Đối Để Cưới Gả
Sai Sót Trong Niềm Tin & Vài Lời Nhắc Quan Trọng
أخطاء في العقيدة وتنبيهات مهمة
https://islamhouse.com/414382
] Tiếng Việt – Vietnamese – فيتنامي [
Sai Sót Trong Niềm Tin & Vài Lời Nhắc Quan Trọng 1
أخطاء في العقيدة وتنبيهات مهمة. 1
Sai Sót Trong Niềm Tin() 6
+ Trong số đó là: 7
+ Chọn mồ mã xây Masjid, 10
+ Trong những việc làm tội lỗi Shirk. 22
+ Trong những điều cấm liên quan đến Shirk 25
+ Trong những việc cải biên tôn giáo. 27
Các Qui Tắc Tạo Niềm Tin Vững Chãi() 32
+ Định nghĩa niềm tin: 34
+ Yêu cầu: 34
+ Thí dụ: 44
# Đối với người bệnh, 44
# Đối với người đi đường, 44
# Đối với người hành lễ Salah, 45
# Đối với ăn uống, 46
+ Định nghĩa niềm tin Islam: 46
+ Nhiệm vụ chung: 47
+ Ý nghĩa của Islam: 47
+ Các nền tảng trụ cột của Islam, gồm: 48
+ Sai sót được chia làm hai phần: 52
Xin mời tham khảo những thí dụ sau: 71
Những Bài Học Quí Giá Liên Quan Đến Đức Tin Imam() 91
Giới ﷻ’lama phân biệt hai câu nói: 108
Một việc phó thác cho Allah cần phải hội tụ đủ hai điều khoản sau: 127
Giáo Lý Cầu Xin & Khấn Vái Các Thủ Lãnh Đã Khuất 175
Lời Khuyên Chung Xoay Quanh Vài Tội Lỗi Thực Tại 224
Kêu Gọi Mọi Người Tôn Thờ Mình: 226
Tin Rằng Ngoài Allah Có Người Trợ Giúp, Gây Hại & Ban Lành Bệnh. 262
Chọn Môn Đăng Hộ Đối Để Cưới Gả. 267
Sai Sót Trong Niềm Tin([1])
Từ Abdul Azeez bin Abdullah bin Baaz gởi đến quí tín hữu Muslim thân mến. Cầu xin Allah ban thành công cho mọi người trong sự hài lòng của Ngài và gia tăng thêm cho quí đạo hữu kiến thức và niềm tin. Amin.
Assalamu a’laikum wa rahmatullah wa barakatuh, wa ba’d:
Tôi đã nghe được rất nhiều tin về sai sót của đạo hữu Muslim về niềm tin Imam, đôi khi họ cứ tưởng đó là Sunnah nhưng thật ra nó lại là Bid-a’h (cái tân).
+ Trong số đó là:
Bác bỏ sự ngự trị cả Allah đến ngai vương, nhưng vấn đề lại được Allah khẳng định trong Qur’an là Ngài ngự trị thật sự trên ngai vương, với lời phán:
﴿إِنَّ رَبَّكُمُ ٱللَّهُ ٱلَّذِي خَلَقَ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضَ فِي سِتَّةِ أَيَّامٖ ثُمَّ ٱسۡتَوَىٰ عَلَى ٱلۡعَرۡشِۖ﴾ الأعراف: ٥٤
{Quả thật, Thượng Đế của các ngươi là Allah Đấng đã tạo hóa các tầng trời và trái đất trong sáu ngày, sau đó Ngài ngự trị trên ngai vương.} Al-A'raaf: 54 (chương 7). Ngoài câu Kinh này Allah còn phán thêm sáu lần khác trong Qur’an xác định Ngài luôn ngự trị trên ngai vương. Có lần Imam Maalik được hỏi về điều này thì Imam nói: “Cách ngự trị là ai cũng rõ, còn cụ thể ra thế nào thì không được rõ nhưng niềm tin vào điều này là bắt buộc.” Câu nói này được rất nhiều Imam khác thời trước nhắc đến.
Ý nghĩa câu: “Cách ngự trị là ai cũng rõ” tức theo nghĩa tiếng Ả-rập là ở trên cao vút, Allah phán:
﴿فَٱلۡحُكۡمُ لِلَّهِ ٱلۡعَلِيِّ ٱلۡكَبِيرِ ١٢﴾ غافر: 12
{Nhưng tất cả mọi uy quyền đều trong tay Allah Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ Đại.} Ghaafir: 12 (chương 40).
﴿وَلَا ئَُودُهُۥ حِفۡظُهُمَاۚ وَهُوَ ٱلۡعَلِيُّ ٱلۡعَظِيمُ ٢٥٥﴾ البقرة: 255
{Và việc quản lý trời đất không làm cho Ngài mỏi mệt bởi vì Ngài là Đấng Tối Cao, Đấng Chí Đại.} Al-Baqarah: 255 (chương 2).
﴿إِلَيۡهِ يَصۡعَدُ ٱلۡكَلِمُ ٱلطَّيِّبُ وَٱلۡعَمَلُ ٱلصَّٰلِحُ يَرۡفَعُهُۥۚ ﴾ (سورة فاطر: 10)
{Những lời nói tốt đẹp và những việc làm đức hạnh được trình duyệt lên Ngài.} Faa-tir: 10 (chương 35). Ngoài ra còn rất nhiều câu kinh khác khẳng định rằng Allah luôn ở trên ngai vương, ở trên tất cả vạn vật. Đây là câu nói của trường phái Sunnah và Jamaa-a’h thuộc bằng hữu của Sahabah (bằng hữu) của Nabi e và những người khác.
Cho nên nhiệm vụ của người Muslim là phải tin tưởng thật thụ vào vấn đề này, hết lòng khuyên bảo nhau làm theo và khuyến cáo mọi người làm trái ngược.
+ Chọn mồ mã xây Masjid,
hành lễ Salah và xây nấm mồ... trong khi tất cả những thứ này là phương tiện dẫn đến đại tội Shirk. Có Hadith đã nguyền rủa nhóm Do Thái và Thiên Chúa về sự việc:
((لَعَنَ اللهُ الْيَهُودَ وَالنَّصَارَى، اتَّخَذُوا قُبُورَ أَنْبِيَائِهِمْ مَسَاجِدَ))
“Allah nguyền rủa nhóm Do Thái và Thiên Chúa việc chúng đã lấy mồ mã của các vị Nabi mà xây dựng Masjid.”([2])
Có Hadith khác Rasul e nói:
((أَلاَ وَإِنَّ مَنْ كَانَ قَبْلَكُمْ كَانُوا يَتَّخِذُونَ قُبُورَ أَنْبِيَائِهِمْ وَصَالِحِيهِمْ مَسَاجِدَ أَلاَ فَلاَ تَتَّخِذُوا الْقُبُورَ مَسَاجِدَ إِنِّى أَنْهَاكُمْ عَنْ ذَلِك))
“Những thế hệ trước các ngươi đã chọn lấy các ngôi mộ của Nabi và những người sùng đạo mà xây dựng Masjid, các ngươi không được phép làm thế, Ta cấm các ngươi làm theo chúng.”([3]) Hadith được Muslim ghi lại từ ông Jundab. Có Hadith khác cũng do Muslim ghi lại từ ông Jaabir bin Abdullah Al-Ansaary kể: “Rasul e cấm viết tên tuổi, cấm ngồi và cấm xây nấm mô cho mồ mã.”([4]) Ngoài ra còn có rất nhiều Hadith khác mang ý nghĩa tương tự.
Nhiệm vụ chung của cộng đồng Muslim là khuyến cáo nhau mối hiểm họa này và khuyên bảo những ai vi phạm từ bỏ hành động nguy hiểm này bởi Rasul e đã cấm và đây là phương tiện dẫn đến đại tội Shirk đó là cầu xin người quá cố, khấn vái nguyện cầu họ, giết tế . . .
Như đã rõ Shirk là đại tội nguy hiểm và vĩ đại nhất trong Islam. Cho nên quí tín hữu cần thận trọng hơn vấn đề, hãy ngăn chặn hết mọi đường lối, mọi phương tiện dẫn đến đại tội này, bởi Allah đã mực mực khẳng định trong Qur’an như sau:
﴿إِنَّ ٱللَّهَ لَا يَغۡفِرُ أَن يُشۡرَكَ بِهِۦ وَيَغۡفِرُ مَا دُونَ ذَٰلِكَ لِمَن يَشَآءُۚ﴾ النساء: ٤٨
{Quả thật, Allah không tha thứ cho hành vi Shirk (hành vi gán ghép một đối tác ngang hàng với Allah trong thờ phượng) nhưng Ngài sẽ tha thứ cho những tội lỗi khác cho người nào Ngài muốn.} Al-Nisa: 48 (chương 4), Allah phán ở chương khác:
﴿وَلَقَدۡ أُوحِيَ إِلَيۡكَ وَإِلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِكَ لَئِنۡ أَشۡرَكۡتَ لَيَحۡبَطَنَّ عَمَلُكَ وَلَتَكُونَنَّ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَ ٦٥﴾ (الزمر: 65)
{Và quả thật, Ngươi (Muhammad) và những vị Nabi trước Ngươi đã được mặc khải cho biết rằng: Nếu Ngươi làm điều Shirk (thờ phượng một thần linh khác cùng với Allah) thì việc làm của các ngươi sẽ trở thành vô nghĩa và chắc chắn rằng Ngươi sẽ là đồng bọn của những kẻ thất bại thật thảm hại.} Al-Zumar: 65 (Chương 39), Allah phán ở chương khác:
﴿وَلَوۡ أَشۡرَكُواْ لَحَبِطَ عَنۡهُم مَّا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ ٨٨﴾ الأنعام: ٨٨
{Nhưng nếu họ tổ hợp (trong việc tôn thờ) những thần linh khác cùng với Ngài thì tất cả việc hành đạo của họ sẽ tiêu tan hết.} Al-An-a'm: 88 (chương 6). Trong Qur’an có rất nhiều câu Kinh phán về chủ đề này.
Trong những thể loại Shirk lớn là cầu xin người chết, người vắng mặt, ma quỉ, bụt tượng, cây cối, tinh tú, khẩn cầu van vái họ cho được mạnh khỏe, được bình an...
Đây là thể loại tôn thờ của người Đa Thần Quraish xưa kia, như Allah đã phán:
﴿وَيَعۡبُدُونَ مِن دُونِ ٱللَّهِ مَا لَا يَضُرُّهُمۡ وَلَا يَنفَعُهُمۡ وَيَقُولُونَ هَٰٓؤُلَآءِ شُفَعَٰٓؤُنَا عِندَ ٱللَّهِۚ ﴾ يونس: ١٨
{Và bọn họ tôn thờ những thần linh khác thay vì Allah, chúng chẳng mang lại lợi ích hoặc gây tổn hại họ được tí nào và họ bảo: “Những vị này là những người can thiệp giùm cho chúng tôi với Allah”} Yunus: 18 (chương 10), Allah phán ở chương khác:
﴿فَٱعۡبُدِ ٱللَّهَ مُخۡلِصٗا لَّهُ ٱلدِّينَ ٢ أَلَا لِلَّهِ ٱلدِّينُ ٱلۡخَالِصُۚ وَٱلَّذِينَ ٱتَّخَذُواْ مِن دُونِهِۦٓ أَوۡلِيَآءَ مَا نَعۡبُدُهُمۡ إِلَّا لِيُقَرِّبُونَآ إِلَى ٱللَّهِ زُلۡفَىٰٓ إِنَّ ٱللَّهَ يَحۡكُمُ بَيۡنَهُمۡ فِي مَا هُمۡ فِيهِ يَخۡتَلِفُونَۗ إِنَّ ٱللَّهَ لَا يَهۡدِي مَنۡ هُوَكَٰذِبٞ كَفَّارٞ ٣﴾ (الزمر: 3)
{Vì thế hãy thành tâm mà tôn thờ Allah * Duy chỉ Allah mới xứng đáng được thành tâm thờ phụng. Riêng những kẻ đã nhận lấy những thần linh ngoài Ngài cho rằng chúng tôi không thờ phượng họ mà chỉ nhờ họ đưa chúng tôi đến gần với Allah hơn. Quả thật, Allah sẽ xét xử giữa bọn chúng về điều mà chúng tranh cãi. Quả thật, Allah sẽ không hướng dẫn ai nói dối và không có đức tin.} Al-Zumar: 3 (chương 39). Qua những câu Kinh chứng minh nhóm Đa Thần Quraish xưa kia đã lĩnh ngộ được Allah là Đấng Tạo Hóa, Đấng Ban Bố, Đấng ban lợi hại, còn việc thờ phụng các thần linh khác nhằm biện hộ cho họ trước Allah và tiến cử họ được gần Ngài hơn. Nhưng lời biện hộ của họ không được Allah chấp nhận, họ đã bị Allah phủ nhận niềm tin, nhóm người Kafir chống đối Ngài và Ngài đã ra lệnh cho Nabi thân tín Muhammad e chiến đấu với họ cho đến khi chấp nhận thờ phụng Allah duy nhất, như đã phán:
﴿وَقَٰتِلُوهُمۡ حَتَّىٰ لَا تَكُونَ فِتۡنَةٞ وَيَكُونَ ٱلدِّينُ كُلُّهُۥ لِلَّهِۚ﴾ الأنفال: 39
{(Hỡi Muhammad !) hãy tiếp tục chiến đấu với bọn họ đến khi nào bọn chúng không còn gây hại (các tín đồ Muslim khác) và dành hết mọi hành động thờ phụng vì Allah duy nhất.} Al-Anfaal: 39 (chương 8).
Với tầm quan trọng của tính Tawhid mà giới ﷻ’lama học giả Islam đã viết rất nhiều sách vở chứng minh sự thật về tôn giáo Islam mà Allah đã thiên khải cho Nabi Muhammad e. Bên cạnh đó, phân tích rõ ràng về niềm tin của nhóm Đa Thần xưa kia đã tin tưởng sai trái với giáo lý của Allah điển hình như Abdullah bin Imam Ahmad, tác giả quyển Tawhid một Imam lớn Muhammad bin Khuzaimah, Muhammad bin Widhaah và nhiều vị Imam khác.
Sách hay nhất về lĩnh vực này là hai quyển sách do hai vị Imam nổi tiếng viết:
1- Quyển Al-qaa-i’dah al-jalilah fi al-tawassul wal wasilah của Sheikh Al-Islam Ibnu Taimiyah.
2- Quyển Fat-h al-majeed shar-h kitaab tawhid của Sheikh Muhammad bin Abdul Wahaab.
+ Trong những việc làm tội lỗi Shirk
là thề thốt ngoài Allah giống như thề bằng danh nghĩa của Nabi hoặc ai đó trong thiên hạ, thề bằng uy tín, thề bởi bóng đèn, bởi nhật nguyệt... tất cả là tội lỗi Shirk bởi Nabi e đã nói:
((مَنْ حَلَفَ بِشَىْءٍ دُونَ اللهِ فَقَدْ أَشْرَكَ))
“Ai thề thốt bằng vật thể nào đó thay vì dùng danh nghĩa của Allah, y là đã phạm tội Shirk.” Hadith do Imam Ahmad ghi lại từ ﷻ’mar bin Al-Khattaab bởi đường truyền chính xác, số (331).
Có Hadith khác do Abu Dawood, Al-Tirmizhi ghi lại bằng đường truyền Saheeh (xác thực) từ Abdullah bin ﷻ’mar bin Al-Khattaab dẫn lời Rasul e rằng:
((مَنْ حَلَفَ بِغَيْرِ اللهِ فَقَدْ كَفَرَ أَوْ أَشْرَكَ))
“Ai thề thốt ngoài Allah là đã phạm tội Kafir (phủ nhận đức tin) hoặc là tội Shirk (tổ hợp trong thờ phụng).”([5])
Có Hadith khác Rasul e nói:
((مَنْ حَلَفَ بِالأَمَانَةِ فَلَيْسَ مِنَّا))
“Ai thề thốt bằng uy tín là y không phải là tín đồ của Ta.”([6])
Giới ﷻ’lama cho rằng thề thốt ngoài Allah là tội Shirk nhỏ nhưng không thể lơ là được mà cần phải thận trọng với tội lỗi này bởi nó là phương tiện dẫn đến Shirk lớn. Ngoài ra, còn có những câu nói: Allah và người đó đã muốn; nếu không có Allah và người đó là…; điều này là từ Allah và người này. Bắt buộc phải thay đổi mà nói: Allah đã muốn sau đó là ý của ông ta; nếu không có Allah sau đó có ông ta; đây là của Allah sau đó của ông ta, bởi Rasul e đã cấm:
((لاَ تَقُولُوا: مَا شَاءَ اللهُ وَشَاءَ فُلاَنٌ، وَلَكِنْ قُولُوا: مَا شَاءَ اللهُ ثُمَّ شَاءَ فُلاَنٌ))
“Cấm các ngươi nói: Allah và người đó đã muốn, mà hãy nói: Allah đã muốn sau đó là ý của ông ta.”([7])
+ Trong những điều cấm liên quan đến Shirk
là có rất nhiều tín hữu Muslim đeo thần chú, bùa hộ mệnh từ xương, lá cây, mẫu giấy, chì . . . tất cả đều bị xem là tội Shirk bởi Nabi e đã nói:
((مَنْ تَعَلَّقَ تَمِيمَةً فَلاَ أَتَمَّ اللهُ لَهُ وَمَنْ تَعَلَّقَ وَدَعَةً فَلاَ وَدَعَ اللهُ لَهُ))
“Ai đeo thần chú sẽ chẳng được Allah ban cho hoàn hảo và cai đeo vỏ sò sẽ bị Allah bỏ mặc.”([8])
((مَنْ تَعَلَّقَ تَمِيمَةً فَقَدْ أَشْرَكَ))
“Ai đeo thần chú là đã phạm tội Shirk.”([9])
((إِنَّ الرُّقَى وَالتَّمَائِمَ وَالتِّوَلَةَ شِرْكٌ))
“Quả thật việc sử dụng bùa, đeo thần chú và bùa yêu là tội Shirk.”([10]) các Hadith này cấm đeo cả thần chú được ghi chép từ Qur’an hoặc bất cứ thứ gì khác, bởi Rasul e chung không loại trừ bất cứ hình thức nào. Ngoại trừ loại thần chú không có tội Shirk bởi Rasul e nói:
((لَا بَاْسَ بالرُّقَى مَا لَمْ تَكُنْ شِرْكَاً))
“Nếu sử dụng loại thần chú không có chứa Shirk bên trong thì được.”([11]) xưa kia Rasul e đã từng đọc và thổi để chữa bệnh cho các Sahabah, bởi đây là lý do được Allah ban cho lành bệnh. Cho nên, có thể đọc từ Qur’an, từ Sunnah hoặc những lời lẽ hiểu được ý nghĩa mà không chứa đựng tội Shirk rồi thổi vào người bệnh hi vọng được Allah ban cho khỏi bệnh.
+ Trong những việc cải biên tôn giáo
như tổ chức sinh nhật cho Nabi e hoặc cho bất cứ ai khác, bởi Nabi e chưa từng tổ chức sinh nhật mình hoặc cho bất cứ ai khác lúc sinh thời, sau Người cũng không có bất cứ vị Sahabah nào hay bất cứ ﷻ’lama nào của ba thế kỷ sau Rasul e lại tổ chức sinh nhật. Việc tổ chức sinh nhật chỉ được bắt đầu vào thế kỷ thứ tư đến nay do nhóm người sùng bái Fatimah và một số khác thuộc nhóm Shi-a’h khai sinh, sau đó có một số người thuộc trường phái Sunnah làm theo do không rõ giáo lý Islam và bắt chước theo việc làm của nhóm cải biên tôn giáo.
Nhiệm vụ chung của cộng đồng Muslim là phải khuyến cáo vấn đề này với mọi người vì nó là việc cải biên tôn giáo đáng bị khai trừ, bởi Rasul e đã nói:
((إِيَّاكُمْ وَمُحْدَثَاتِ الأُمُورِ فَإِنَّ كُلَّ مُحْدَثَةٍ بِدْعَةٌ، وَكُلَّ بِدْعَةٍ ضَلاَلَةٌ))
“Ta khuyến cáo các ngươi việc cải biên tôn giáo, quả thật tất cả việc cải biên là Bid-a’h và tất cả Bid-a’h là sự lầm lạc.”([12])
Có Hadith khác Rasul e nói:
((مَنْ أَحْدَثَ فِي أَمْرِنَا هَذَا مَا لَيْسَ مِنْهُ فَهُوَ رَدٌّ))
“Ai tạo ra cái mới trong việc làm này của Ta (tức trong Islam) mà nó không có trong đạo thì việc làm đó bị trả lại y.”([13]) Hadith do Al-Bukhary và Muslim ghi lại từ bà A’-y-shah.
((مَنْ عَمِلَ عَمَلًا لَيْسَ عَلَيْهِ أَمْرُنَا فَهُوَ رَدٌّ))
“Ai làm điều gì mà không có lệnh của Ta thì việc làm đó của y bị trả lại.”([14]) Hadith do Muslim ghi lại.
Trong lần thuyết giảng Rasul e đã nói:
((أَمَّا بَعْدُ: إِنَّ أَصْدَقَ الْحَدِيثِ كِتَابُ اللهِ وَخَيْرَ الْهَدْيِ هَدْيُ مُحَمَّدٍ e، وَشَرُّ الْأُمُورِ مُحْدَثَاتُهَا وَكُلُّ مُحْدَثَةٍ بِدْعَةٌ وَكُلُّ بِدْعَةٍ ضَلَالَةٌ))
“Amma ba’d: Thực sự, lời nói chân lý chính là Kinh Sách của Allah và sự hướng dẫn tốt nhất chính là sự hướng dẫn của Muhammad e. Còn điều tồi tệ nhất chính là điều mới mẽ (trong tôn giáo), mọi điều mới (trong tôn giáo) là Bid-a’h, mọi điều Bid-a’h là sự lầm đường lạc lối.”([15]) Hadith do Muslim ghi lại từ ông Jaabir.
Và bởi việc tổ chức sinh nhật là đường lối dẫn đến việc sùng bái và phạm phải tội Shirk. Vì vậy, chúng ta tín đồ Muslim cần phải khuyến cáo tính nguy hiểm của vấn đề và khuyên bảo nhau bám lấy Sunnah mà bỏ đi những gì trái ngược Sunnah.
Cầu xin Allah ban thành công cho tất cả chúng ta và toàn thể cộng đồng Muslim trong sự hài lòng của Ngài. Khẩn cầu Ngài ban cho chúng ta có được kiến thức đúng thật về Islam; xin Ngài bảo vệ chúng ta thoát khỏi mọi cám dỗ, mọi lầm lạc do lũ Shaytaan bày trận. Quả thật Allah thừa khả năng trợ giúp. Wassalam a’laikum wa rahmatullah wa barakatuh.
dkf
Các Qui Tắc Tạo Niềm Tin Vững Chãi([16])
اَلْحَمْدُ لِلهِ رَبِّ الْعَالَمِيْنَ، وَالْعَاقِبَةُ لِلْمُتَّقِينَ، وَالصَّلَاةُ وَالسَّلَامُ الْأّتَمَّانِ الْأَكْمَلَانِ عَلَى عَبْدِهِ وَرَسُولِهِ وَخَلِيْلِهِ وَأَمِينِهِ عَلَى وَحْيِهِ، نَبِيِّنَا وَإِمَامِنَا وَسَيِّدِنَا مُحَمَّدٍ بِنْ عَبْدِ اللهِ، وَعَلَى آلِهِ وَأَصْحَابِهِ، وَمَنْ سَلَكَ سَبِيلَهُ، وَاهْتَدَى بِهُدَاهِ إِلَى يَوْمِ الدِّيْنِ، أَمَّا بَعْدُ:
Alhamdulillah, mọi lời ca ngợi, tạ ơn đều kính dâng Allah Đấng chúa tể của vủ trụ và chắc chắn kết quả tốt đẹp sẽ thuộc về nhóm người biết kính sợ. Cầu xin Ngài ban bình an, ban phúc lành, ban thành công và ban sự hoàn mỹ đến cho nô lệ của ngài, cho Rasul thân tín xuất sắc về sứ mạng, vị Nabi, vị Imam, vị dẫn đầu của chúng ta Muhammad con trai ông Abdullah, cho gia quyến của Người, cho tất cả bằng hữu của Người và cho những ai bước trên đường lối của Người, bám theo chỉ đạo của Người cho đến ngày tận thế. Và sau nữa:
Không gì phải tranh cải rằng một người Muslim có được niềm tin đúng đắn phù hợp với giáo lý Islam là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, vì lẽ đó mà tôi đặt cho quyển sách nhỏ này mang tên “các qui tắc tạo niềm tin vững chãi”.
+ Định nghĩa niềm tin:
Là sự khẳng định trong lòng của mỗi người và dựa vào đó mà hành đạo dù tốt hay xấu, đúng hay sai.
+ Yêu cầu:
Mỗi người cần phải có được một niềm tin đúng thật, bởi trong dân gian có vô số niềm tin nhưng tất cả đều sai trái, lầm lạc ngoại trừ niềm tin được Qur’an và Sunnah hoạch định. Đó là niềm tin vào Islam, một niềm tin tinh khiết, thuần túy không tí tị nhơ nhuốc của đa thần, cải biên tôn giáo hay tội lỗi. Và niềm tin này chỉ có trong Qur’an và Sunnah, đấy chính là Islam. Allah phán:
﴿إِنَّ ٱلدِّينَ عِندَ ٱللَّهِ ٱلۡإِسۡلَٰمُۗ﴾ آل عمران: 19
{Quả thật, tôn giáo được thừa nhận nơi Allah duy nhất chỉ có Islam.} Ali I'mraan: 19 (chương 3), Allah phán ở chương khác:
﴿ٱلۡيَوۡمَ أَكۡمَلۡتُ لَكُمۡ دِينَكُمۡ وَأَتۡمَمۡتُ عَلَيۡكُمۡ نِعۡمَتِي وَرَضِيتُ لَكُمُ ٱلۡإِسۡلَٰمَ دِينٗاۚ﴾ المائدة: ٣
{Ngày hôm nay, TA đã hoàn tất cho các ngươi tôn giáo của các ngươi và TA đã hoàn thành trọn vẹn cho các ngươi ân huệ của TA và TA đã hài lòng lấy Islam làm tôn giáo cho các ngươi.} Ma-i-dah: 3 (Chương 5).
Islam là tôn giáo của Thượng Đế Allah, ngoài Islam Ngài sẽ không chấp nhận bất cứ tôn giáo nào khác, với lời phán:
﴿وَمَن يَبۡتَغِ غَيۡرَ ٱلۡإِسۡلَٰمِ دِينٗا فَلَن يُقۡبَلَ مِنۡهُ وَهُوَ فِي ٱلۡأٓخِرَةِ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَ ٨٥﴾ آل عمران: ٨٥
{Và ai tìm kiếm một đạo nào khác ngoài tôn giáo Islam thì việc làm đó của y sẽ không bao giờ được (Allah) chấp nhận và ở đời sau y sẽ là một trong những kẻ bị thua thiệt.} Ali I’mraan: 85 (chương 3).
Islam là tôn giáo chung của tất cả Nabi, là tôn giáo của thủy tổ Adam và của tất cả Nabi đến sau Người như Nuh, Ibrahim, Musa (Moi-se), Ysa (Giê-su), Sulayman, Ishaaq, Ya’qoob, Yusuf và của những vị Nabi khác và Islam cũng là tôn giáo của Nabi Muhammad e, một vị Nabi với sứ mạng vĩ đại nhất là truyền bá Islam cho toàn thể nhân loại, Người nói:
((الأَنْبِيَاءُ إِخْوَةٌ لِعَلاَّتٍ، أُمَّهَاتُهُمْ شَتَّى، وَدِينُهُمْ وَاحِدٌ))
“Tất cả các vị Nabi là anh em cùng cha khác mẹ và tôn giáo của họ chỉ làm một.”([17]) Có đường truyền ghi:
((أَوْلَادٌ عَلَّاتٌ))
“Là những đứa con cùng cha”([18])
Ý nghĩa câu: Tôn giáo chung của tất cả Nabi là một tức chỉ tôn thờ Allah duy nhất, hết lòng tin rằng Ngài là Chủ Tể của toàn vủ trụ, Ngài là Đấng Tạo Hóa Siêu Việt, chỉ Ngài mới xứng đáng được thờ phụng và tin vào ngày tận thế, sự phục sinh, thiên đàng, hỏa ngục, bàn cân và những vấn đề khác liên quan đến ngày sau.
Còn về giáo lý thì hoàn toàn khác nhau, bởi Allah đã phán:
﴿لِكُلّٖ جَعَلۡنَا مِنكُمۡ شِرۡعَةٗ وَمِنۡهَاجٗاۚ﴾ المائدة: 48
{TA đã qui định cho từng (Rasul) trong các người một hệ thống luật pháp và một lề lối nhất định riêng biệt.} Al-Maa-idah: 48 (chương 5).
Anh em cùng cha tức cha của họ là một còn mẹ thì khác nhau, tương tự thế tất cả Nabi tôn giáo của họ chỉ là một đó là độc tôn Allah duy nhất và thành tâm tôn thờ Ngài.
Đây cũng là ý nghĩa của câu “La i la ha il lol loh” tức chỉ vì Allah duy nhất mà hành thờ phụng, rồi đặt trọn niềm tin vào Allah, tin tưởng vào giới Thiên Thần, vào tất cả Kinh Sách, vào giới Nabi, vào ngày tận thế và tin tưởng định mệnh tốt xấu của con người là do Allah duy nhất định đoạt. Sau đó tin tưởng những gì liên quan đến ngày phục sinh như thiên đàng, hỏa ngục, bàn cân, sự tính sổ, cây cầu. . .
Thế đó tôn giáo của tất cả Nabi chỉ là một, tất cả họ có chung một sắc lệnh là kêu gọi thiên hạ quay lại tôn thờ Allah duy nhất nhưng mỗi Nabi có mỗi giáo lý riêng biệt, giáo lý trong Tawrah ban Musa u khác với giáo lý trong Injeel ban Ysa u và cả hai khác với giáo lý trong Qur’an ban Muhammad e, nhưng giáo lý trong Qur’an là dễ dàng nhất, như Allah đã phán:
﴿وَيَضَعُ عَنۡهُمۡ إِصۡرَهُمۡ وَٱلۡأَغۡلَٰلَ ٱلَّتِي كَانَتۡ عَلَيۡهِمۡۚ﴾ الأعراف: 157
{“Y tháo gở gánh nặng cũng như giải phóng họ thoát khỏi gông cùng đã và đang đè nặng lên họ.”} Al-A’raaf: 156 – 157 (chương 7),
có Hadith Nabi e nói:
((بُعِثْتُ بِالْحَنِيفِيَّةِ السَّمْحَةِ))
“Ta được ban cho một bộ giáo lý dễ dàng thuận lợi”([19])
Allah thiên khải bộ giáo lý Islam không gây khó khăn, rắc rối, không là gông xiềng đối với tín đồ, như Allah phán:
﴿وَمَا جَعَلَ عَلَيۡكُمۡ فِي ٱلدِّينِ مِنۡ حَرَجٖۚ﴾ (سورة الحج: 78)
{Ngài đã không áp chế các ngươi bởi tôn giáo.} Al-Hajj: 78 (Chương 22).
Trong các bộ giáo lý trước giáo lý của Rasul Muhammad e không được phép Tayammum khi không có nước, họ phải chờ đến khi có nước rồi hành lễ Salah bù lại. Đến giáo lý Islam của Muhammad e thì được phép thay thế nước khi không có nước hoặc không thể dùng nước do bệnh, chuyển sang Tayammum bằng đất mà hành lễ Salah. Ngoài ra còn có rất nhiều giáo lý khác luôn tạo sự dễ dàng và thuận lợi cho tín đồ.
Tất cả Nabi trước chỉ được nhận sứ mạng dành riêng cho dân tộc mình, riêng Nabi Muhammad e thì đảm nhận sứ mạng truyền đạt Islam cho toàn thể loài người và ma quỉ, cho người Ả-rập, cho người không phải Ả-rập và Allah chọn Người là vị Nabi cuối cùng được phái xuống trần gian.
Theo các bộ giáo lý trước là tín đồ chỉ được phép hành lễ Salah tại nhà, tại Masjid hoặc tại nơi đã chọn để hành lễ, nhưng theo giáo lý của Muhammad e thì dễ dàng hơn rất nhiều là tín đồ được phép hành lễ Salah ở bất cứ nơi đâu đang ở khi đã đến giờ, như Nabi e đã nói:
((وَجُعِلَتْ لِىَ الأَرْضُ مَسْجِداً وَطَهُوراً))
“Ta được phép sử dụng mặt đất làm Masjid và tẩy rửa.”([20])
Giáo lý Islam do Muhammad e mang đến là một giáo lý rộng lớn và dễ dàng, chứ nó không phải là gông xiềng hay tạo khó khăn cho bất cứ tín đồ nào.
+ Thí dụ:
# Đối với người bệnh,
không bắt buộc phải nhịn chay, y được phép trì hoãn đến khỏe hẳn rồi nhịn bù sau đó.
# Đối với người đi đường,
được phép rút ngắn các buổi lễ từ bốn Rak-at thì hai Rak-at, được phép ăn uống trong tháng Ramadan rồi nhịn bù lại sau đó, bởi Allah đã phán:
﴿وَمَن كَانَ مَرِيضًا أَوۡ عَلَىٰ سَفَرٖ فَعِدَّةٞ مِّنۡ أَيَّامٍ أُخَرَۗ ﴾ البقرة: 185
{Và đối với ai bị bệnh hoặc đi du hành xa nhà thì được phép hoãn việc nhịn chay lại và nhịn bù vào những ngày khác tương ứng số ngày đã thiếu.} Al-Baqarah: 185 (chương 2).
# Đối với người hành lễ Salah,
khi không thể đứng được phép hành lễ ngồi, còn không thể ngồi thì nằm nghiên, còn vẫn không thể nằm nghiên thì nằm theo tư thế thuận lợi nhất mà hành lễ Salah, bởi Rasul e đã di huấn như thế.
# Đối với ăn uống,
một khi không tìm thất bất cứ gì Halal (được phép) để ăn thì được phép ăn những gì Haram (bị cấm) như xác chết động vật chẳng hạn để tránh việc chết đói.
+ Định nghĩa niềm tin Islam:
Là duy chỉ tôn thờ Allah duy nhất, thành tâm hành đạo vì Ngài, đặt trọn niềm tin vào Ngài, tin tưởng vào tất cả Nabi của Ngài, vào tất cả Kinh Sách của Ngài, vào tất cả Thiên Thần của Ngài, vào ngày tận thế và các sự kiện liên quan như phục sinh, tính toán, thưởng phạt, thiên đàng, hỏa ngục... và tin tưởng vào định mệnh tốt hay xấu là do Allah duy nhất định đoạt chứ không phải do ngày tháng năm sinh hay bất cứ lý do nào khác.
+ Nhiệm vụ chung:
Là quảng bá Islam đúng thực đến với nhân loại, ra lệnh nhau làm thiện và cấm nhau làm tội lỗi, hiếu thảo với song thân, hàn gắn tình dòng tộc, lời nói thật thà cương trực, uy tín . . .
+ Ý nghĩa của Islam:
Là chỉ thuần phục Allah, duy trì thuyết độc thần với Ngài, thành tâm thờ phụng Ngài, bám lấy lời phán của Ngài và tuân lệnh Rasul Muhammad e của Ngài. Đây chính là Islam, bởi người Muslim phải theo khuôn khổ Islam cho phép từ niềm tin, việc hành đạo, làm hoặc bỏ tất cả phải trên ranh giới Allah cho phép, có thế mới được gọi là người Muslim đích thực.
+ Các nền tảng trụ cột của Islam, gồm:
# Lời tuyên thệ La i la ha il lol loh và muhammad ra su lul loh.
# Hành lễ Salah.
# Xuất Zakat bắt buộc.
# Nhịn Chay tháng Ramadan.
# Hành hương Haj đối với người có khả năng.
Ý nghĩa của lời tuyên thệ: Là độc thờ Allah, thành tâm hành đạo vì Ngài, niềm tin kiên định rằng Muhammad là Rasul (Thiên Sứ) được phái đến với hai loài người và ma. Hai câu tuyên thệ này là nguồn gốc chính của tôn giáo, là cơ sở tất yếu của giáo lý. Cho nên, không có Thượng Đế nào xứng đáng ngoại trừ Allah duy nhất là ý nghĩa của câu La i la ha il lol loh như Allah đã phán:
﴿ذَٰلِكَ بِأَنَّ ٱللَّهَ هُوَ ٱلۡحَقُّ وَأَنَّ مَا يَدۡعُونَ مِن دُونِهِۦ هُوَ ٱلۡبَٰطِلُ﴾ الحج: ٦٢
{(Sự việc như) thế đấy là bởi chính Allah là Đấng Chân Lý Tuyệt Đối và chắc chắn những ai cầu xin ngoài Allah tất cả đều do hư cấu, giả tạo.} Al-Haj: 62 (chương 22).
Còn ý nghĩa câu Muhammad ra su lul lah là xác nhận một lòng rằng Muhammad con trai ông Abdullah cháu nội Abdul Mutalib, thuộc dòng dõi Al-Haashimi sinh ra tại Makkah và lập nghiệp tại Madinah là Rasul, là Thiên Sứ thật sự của Allah, Người là nô lệ quí giá nhất trong đám nô lệ của Ngài, dòng dõi của Người danh giá nhất trong cộng đồng Ả-Rập, Người được sàn lọc trong sự tuyển chọn của việc lựa chọn. Trong thế giới loài người Rasul Muhammad e là người tốt nhất, danh giá nhất, Người là lãnh đạo của thế giới loài người.
Là người Muslim phải hết lòng tin rằng Muhammad là Rasul e chung cho con người và ma, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, ở thành thị hay nông thôn. Ai tuân theo Người sẽ được thiên đàng và ai bất tuân Người sẽ xa vào hỏa ngục, Nabi e nói:
((كُلُّ أُمَّتِى يَدْخُلُونَ الْجَنَّةَ إِلاَّ مَنْ أَبَى))
“Tất cả tín đồ của Ta được vào thiên đàng ngoại trừ ai từ chối.” Có lời hỏi: Ai lại dám từ chối, thưa Rasul? Người đáp:
((مَنْ أَطَاعَنِى دَخَلَ الْجَنَّةَ وَمَنْ عَصَانِى فَقَدْ أَبَى))
“Ai tuân lệnh Ta được vào thiên đàng và ai bất tuân là đã từ chối.”([21]) Al-Bukhary.
Tuy nhiên cũng có vài sai sót mà tín đồ Muslim mắc phải cần nhắc đính chính.
+ Sai sót được chia làm hai phần:
# Loại sai sót xóa đi hoàn toàn đức tin của người phạm phải và đẩy y ra khỏi vành đai Islam trở thành người Kafir.
Thứ nhất: Bằng lời nói, giống như chửi Allah, chửi Rasul e điển hình như nói: Allah bất công; Allah keo kiệt; Allah nghèo hèn; có một số vấn đề Allah không rõ hoặc không có khả năng trong một số vấn đề... tất cả những câu nói tương tự như thế đã biến người nói trở thành người Kafir.
Cho nên ai dám khẳng định rằng Allah thiếu xót hoặc chửi mắng Ngài hoặc Allah đáng xấu hổ trong vài vấn đề thì y là Kafir, kẻ phản đạo do lời phát ngôn của y. Giống như nhóm Do Thái đã nói: Allah rất keo kiệt; Allah nghèo mạc còn chúng ta mới giàu có.
Hoặc nói: Allah không bắt buộc tín đồ phải hành lễ Salah. Cộng đồng Muslim thống nhất rằng ai dám khẳng định thế là đã là người phản Islam, ngoại trừ ai đó với vào Islam hoặc ở xa với cộng đồng Muslim không biết tí gì về giáo lý. Còn ai ở trong lòng cộng đồng Muslim mà lại khẳng định thế thì y là người phản đạo, yêu cầu phải sám hối.
Tương tự ai dám phủ nhận xuất Zakat hoặc nhịn chay Ramadan hoặc Haj không phải là nhiệm vụ của tín đồ Muslim, y cũng là kẻ phản đạo.
Thứ hai: Bằng hành động, giống như bỏ hành lễ Salah, cho dù người bỏ có khẳng định rằng Salah là nhiệm vụ nhưng lại không hành lễ vẫn là người phản đạo dựa theo câu nói đúng nhất của giới ﷻ’lama, bởi Rasul e đã khẳng định:
((الْعَهْدُ الَّذِى بَيْنَنَا وَبَيْنَهُمُ الصَّلاَةُ فَمَنْ تَرَكَهَا فَقَدْ كَفَرَ))
“Ranh giới giữa người chúng ta (người Muslim) với họ (người Kafir) là Salah, ai bỏ hành lễ Salah y là Kafir.”([22]) Ahmad, Al-Tirmizhi và Al-Nasaa-y và Rasul e nói ở Hadith khác:
((بَيْنَ الرَّجُلِ وَبَيْنَ الشِّرْكِ وَالْكُفْرِ تَرْكَ الصَّلاَةِ))
“Điểm khác biệt giữa người Múlsim và người Kafir, Đa Thần là bỏ hành lễ Salah.”([23]) Muslim.
Ông Abdullah bin Shaqeeq Al-ﷻ’qaily, một vị Tabi-i’ (sau thời Sahabah) đã nói: “Tất cả Sahabah (bằng hữu của Nabi e) đồng cho rằng không một việc nào bỏ nó làm cho người Muslim thành Kafir ngoài việc bỏ hành lễ Salah.”([24]) (Al-Tirmizhi bằng đường truyền Saheeh) tức cố ý bỏ hành lễ Salah.
Trong những điều xóa đức tin Imam bằng hành động là xe thường Thiên Kinh Qur’an như đứng hoặc ngồi lên Qur’an hoặc cố ý bôi chất dơ lên Qur’an. Với hành động này biến người Muslim thành người phản đạo Kafir.
Tương tự, Tawwaaf (đi vòng quanh mồ mã), cúng tế, hướng lễ Salah cho người chết hoặc ma quỉ là sự phủ nhận đức tin bằng hành động. Còn cầu xin, van vái, nguyện cầu họ là phủ nhận đức tin bằng lời nói.
Nếu chọn việc Tawwaaf với mục đích hành đạo vì Allah lại rơi vào tội Bid-a’h, là một trong các phương tiện dẫn đến tội Shirk chứ chưa phạm tội phản đạo bởi người làm không biết về giáo lý nhưng nếu định tâm cúng tế người chết là rơi vào tội phản đạo như đã nói ở trên.
Trong những điều phủ nhận đức tin bằng hành động là giết tế động vật để dâng hiến thần linh ngoài Allah dù đó là động vật gì gà, vịt, trâu, bò, cừu, dê hay chỉ là một con ruồi. Ngoài ra hiến tế cho các tinh tú, các vì sao cũng phạm tội tương tự. Tất cả những gì quí đạo hữu vừa đọc là sự phủ nhận đức tin bằng hành động, biến một người Muslim thành người Kafir. Cầu xin Allah ban bình an và thành đạt.
Thứ ba: Bằng niềm tin, tức chỉ khẳng định trong lòng rằng Allah rất nghèo, rất keo kiệt hoặc là Đấng bất công thì y là người phản đạo cho dù không nói ra lời hoặc không làm gì cả. Đây là sự thống nhất của cộng đồng Muslim.
Tương tự chỉ cần khẳng định trong lòng rằng không có ngày phục sinh hoặc ngày tận thế hoặc không có thiên đàng hay địa ngục hoặc sau khi chết là chấm hết không còn cuộc sống nào nữa... ai khẳng định như thế là người Kafir cho dù không nói ra lời hoặc không làm gì cả, nơi ở cuối cũng của y sẽ là hỏa ngục do niềm tin sai lầm.
Tương tự, trong lòng khẳng định rằng Muhammad e không phải là người thật thà hoặc không phải là vị Nabi cuối cùng mà sau Người còn nhiều vị Nabi khác nữa hoặc cho rằng ông Muslim vua nói dối mới là Nabi thật sự, tất cả những khẳng định này làm cho một người Muslim thành người Kafir do bởi lòng tin sai trái của y. Hoặc cho rằng Nuh hay Ibrahim hay Musa hay Ysa hay vị Nabi nào đó là người nói dối hoặc tất cả họ là người nói dối thì y là người Kafir phản đạo.
Tương tự khẳng định trong lòng rằng được phép cầu xin cùng với Allah một vị thần linh hay con người nào đó như Nabi, Thiên Thần chẳng hạn. Lòng tin này đã xóa đi hoàn toàn đức tin của một người Muslim bởi Allah đã phán:
﴿ذَٰلِكَ بِأَنَّ ٱللَّهَ هُوَ ٱلۡحَقُّ وَأَنَّ مَا يَدۡعُونَ مِن دُونِهِۦ هُوَ ٱلۡبَٰطِلُ﴾ الحج: ٦٢
{(Sự việc như) thế đấy là bởi chính Allah là Đấng Chân Lý Tuyệt Đối và chắc chắn những ai cầu xin ngoài Allah tất cả đều do hư cấu, giả tạo.} Al-Haj: 62 (chương 22).
﴿وَإِلَٰهُكُمۡ إِلَٰهٞ وَٰحِدٞۖ لَّآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ ٱلرَّحۡمَٰنُ ٱلرَّحِيمُ ١٦٣﴾ البقرة: ١٦٣
{Và Thượng Ðế của các ngươi là một Thượng Ðế duy nhất, Không có Thượng Ðế nào khác, duy chỉ có Ngài (Allah), Ðấng Rất Mực Nhân Từ, Rất Mực Khoan Dung.} Al-Baqarah: 163 (chương 2).
﴿إِيَّاكَ نَعۡبُدُ وَإِيَّاكَ نَسۡتَعِينُ ٥﴾ الفاتحة: 5
{Duy chỉ Ngài chúng tôi tôn thờ và cũng duy chỉ Ngài chúng tôi cầu xin sự giúp đỡ.} Al-Fatihah: 5 (chương 2).
﴿۞وَقَضَىٰ رَبُّكَ أَلَّا تَعۡبُدُوٓاْ إِلَّآ إِيَّاهُ﴾ الإسراء: ٢٣
{Và Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) đã quyết định rằng các người chỉ được phép thờ phụng Ngài duy nhất.} Al-Isra: 23 (chương 17).
﴿فَٱدۡعُواْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ وَلَوۡ كَرِهَ ٱلۡكَٰفِرُونَ ١٤﴾ غافر: 14
{Các ngươi hãy chuyên tâm tôn thờ Allah duy nhất cho dù có bị bọn Kafir ghét bỏ.} Ghaafir: 14 (chương 40).
﴿وَلَقَدۡ أُوحِيَ إِلَيۡكَ وَإِلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِكَ لَئِنۡ أَشۡرَكۡتَ لَيَحۡبَطَنَّ عَمَلُكَ وَلَتَكُونَنَّ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَ ٦٥ ﴾ (الزمر: 65)
{Và quả thật, Ngươi (Muhammad) và những vị Nabi trước Ngươi đã được mặc khải cho biết rằng: Nếu Ngươi làm điều Shirk (thờ phượng một thần linh khác cùng với Allah) thì việc làm của các ngươi sẽ trở thành vô nghĩa và chắc chắn rằng Ngươi sẽ là đồng bọn của những kẻ thất bại thật thảm hại.} Al-Zumar: 65 (Chương 39). Còn có rất nhiều câu Kinh khác mang ý nghĩa tương tự.
Ai khẳng định rằng trong lòng hoặc cho rằng được phép tôn thờ thần linh khác cùng với Allah đại loại như là Thiên Thần, Nabi, cây cối, bụt tượng hoặc ma quỉ... thì y là Kafir bởi đã tin tưởng, nếu nói ra lời thì y là Kafir bởi niềm tin và lời nói; nếu tôn thờ hoặc cầu xin thì y là Kafir bởi niềm tin, lời nói và hành động. Cầu xin Allah được bình an.
Ngoài ra, có một số nơi Người Muslim đến cầu xin khấn vái mồ mã: tôi cầu xin chủ nhân tôi đang ở cận kề ngài đây, xin hãy chữa lành bệnh cho tôi, hãy cho tôi tìm được đồ mất cắp, hãy cho tôi được an lòng. Đôi khi họ cầu xin những người được tôn vinh làm Waly, những người này quên đi Allah mà tổ hợp với Ngài trong thờ phụng. Những người này đã phản đạo bởi niềm tin, lời nói và hành động.
Đôi khi họ ở nơi rất xa nhưng lại gọi: Hỡi Rasul của Allah, xin hãy cứu giúp tôi; có người đến tận mộ Rasul mà vái: Thưa Rasul của Allah, xin ban cho tôi lành bệnh. Thưa Rasul của Allah, ban cho chúng tôi chiến thắng được kẻ thù bởi Người biết được hoàn cảnh hiện tại của chúng tôi, xin hãy giúp đỡ chúng tôi. Trong khi Rasul e hoàn toàn không biết tí gì về thiên cơ huyền bí mà chỉ có Allah duy nhất. Sự việc này đã xảy ra rất nhiều nơi trên thế giới điển hình như ở Riyadh và Al-Dir-i’yah vào thời điểm trước Sheikh Muhammad bin Abdul Wahaab có rất nhiều người Muslim đã tìm đến cây cối mà cầu xin thay vì cầu xin khấn vái Allah.
Có mộ ông Zaid bin Al-Khattaab đã chết trong lúc tiêu diệt Musailamah, từ đó mộ ông được mọi người tôn thờ thay vì Allah nhưng sau đó bị đập phá do lời truyền bá của Sheikh Muhammad bin Abdul Wahhaab và mọi người không còn nhớ mộ ông đâu nữa. Xin muôn vàn tạ ơn Allah.
Còn ở Najd và Al-Hijaaz lại có rất nhiều người làm Shirk và tin tưởng bậy bạ không thể đếm xuể. Cho đến nữa thế kỷ thứ mười hai tức sau khi Rasul qua đời được hơn 200 năm, Allah cho Sheikh Muhammad bin Abdul Wahhaab xuất hiện dưới sự trợ lực hết mình của hoàng tộc Sa-u’d đến kêu gọi mọi người trở về với niềm tin đứng đắn đã làm thay đổi rất nhiều ﷻ’lama và tín đồ khác trở lại con đường đúng thực của Islam. Sheikh đã thay đổi được một cộng đồng lầm lạc trong tôn thờ ma quỉ, đá, cây, người sùng đạo và những hiền nhân, những việc làm này chẳng khác gì với cách tôn thờ Đa Thần của nhóm người Quraish đã tôn thờ và cầu xin thần Lat, ﷻ’zza, Munaah, mồ mã.
Sheikh đã nổ lực trong việc truyền đức tin đúng thực của Islam. Allah đã cho ánh sáng chân lý đó chiếu sáng khắp mọi nơi và đã thay đổi được Najd, Al-Hijaaz và bán đảo Ả-rập, mọi người dần dần từ bỏ niềm tin sai trái, sự hành đạo lệch lạc sang tôn thờ Allah duy nhất đúng thực với ý nghĩa của Islam.
Thứ tư: Bằng tính nghi ngờ, tức ai đó lưỡng lự không biết Allah có thật không; việc phục sinh, thiên đàng, hỏa ngục là có thật không; Muhammad không biết có phải là Rasul cuối cùng không; có lẽ Musailamah mới là Rasul; ông Al-Aswad Al-ﷻ’nsy ở Yamen tự xưng là Nabi có lẽ là thật thì phải; không biết Salah, nhịn chay, Zakat, Haj có phải là điều bắt buộc không... tất cả những nghi ngờ này đã biến một người Muslim thành người Kafir bởi tính nghi ngờ của y, vì những điều này là kiến thức bắt buộc của Islam được chứng minh bằng Qur’an, bằng Sunnah và bằng sự thống nhất của cộng đồng Muslim. Những người này buộc phải sám hối nếu không thì phạm tọi chết bởi Rasul e đã nói:
((مَنْ بَدَّلَ دِيْنَهُ فَاقْتُلُوهُ))
“Ai tự thay đổi tôn giáo mình thì phán y tội tử.”([25])
Vì vậy là người Muslim phải một lòng tin rằng Salah, nhịn chay, Zakat, Haj là những nhiệm vụ của mỗi tín đồ.
Đến đây chấm dứt loại sai sót trong niềm tin xóa đi đức tin của một người, ai vi phạm yêu cầu phải sám hối bằng không phạm tội chết.
# Loại sai sót làm cho đức tin bị yếu đi,
bị xa vào hỏa ngục và chìm trong cơn thịnh nộ của Allah nhưng vẫn còn là người Muslim.
Thí dụ: Về Zina (quan hệ tình dục trước hôn nhân), nếu ai tin rằng Zina là điều cấm trong giáo lý Islam nhưng vẫn vi phạm và biết mình làm sai. Người này là người Muslim phạm tội bất tuân Allah, làm cho đức tin y yếu đi. Riêng những ai cho rằng Zina là được phép thì y là Kafir.
Tương tự ai cho rằng trộm cắp là điều được phép thì y là Kafir, bởi dám cho phép điều Allah đã cấm.
Ngoài ra, tội mách lẽo, nói xấu, bất hiếu, ăn tiền vai lãi... tất cả đều tác động làm cho niềm tin bị xuống dốc mạnh.
Trong thể loại này là những điều Bid-a’h (cải biên, cả cách, thêm bớt trong tôn giáo) đây là trọng tội làm cho đức tin xa dốc rất mạnh, nếu trong nó có Shirk sẽ dẫn đến phản đạo.
Xin mời tham khảo những thí dụ sau:
Bid-a’h trong xây mồ mã như xây Masjid, xây nấm mộ vì mục đích tỏ lòng tôn trọng với người chết, chứ không tôn thờ, cầu xin thì đây là điều Bid-a’h làm cho y niềm tin sa sút mạnh và là đường lối dẫn đến đại tội Shirk.
Bid-a’h về sinh nhật Nabi được một số người tổ chức vào ngày 12 tháng Rabe’ Awwal (tháng 3) hằng năm theo lịch Islam. Tổ chức sinh nhật này bị xem cải biên thêm bớt trong tôn giáo là do chính Rasul e chưa từng tổ chức cho bản thân mình lúc sinh thời, không một vị Khulafa Al-Rashideen cũng như không một vị Sahabah nào lại tổ chức sinh nhật cho người lúc Người còn sống hay sau khi đã chết. Thậm chí sau 300 năm từ khi Rasul e qua đời vẫn không một ﷻ’lama nào tổ chức. Khẳng định rằng việc tổ chức sinh nhật này mới xảy ra trong thời gian gần đây.
Nói chung, việc tổ chức sinh nhật là việc làm Bid-a’h dù là được tổ chức cho ai đi chăng, bởi sự việc không được Allah cho phép và Rasul e đã khuyến cáo:
((وَشَرُّ الْأُمُورِ مُحْدَثَاتُهَا وَكُلُّ مُحْدَثَةٍ بِدْعَةٌ وَكُلُّ بِدْعَةٍ ضَلَالَةٌ))
“Và điều tồi tệ nhất chính là điều mới mẽ (trong tôn giáo), mọi điều mới (trong tôn giáo) là Bid-a’h, mọi điều Bid-a’h là sự lầm đường lạc lối.”([26]) Hadith do Muslim ghi lại từ ông Jaabir.
Có Hadith khác Rasul e nói:
((مَنْ أَحْدَثَ فِي أَمْرِنَا هَذَا مَا لَيْسَ مِنْهُ فَهُوَ رَدٌّ))
“Ai tạo ra cái mới trong việc làm này của Ta (tức trong Islam) mà nó không có trong đạo thì việc làm đó bị trả lại y.”([27]) Hadith do Al-Bukhary và Muslim ghi lại từ bà A’-y-shah.
((مَنْ عَمِلَ عَمَلًا لَيْسَ عَلَيْهِ أَمْرُنَا فَهُوَ رَدٌّ))
“Ai làm điều gì mà không có lệnh của Ta thì việc làm đó của y bị trả lại.”([28]) Hadith do Muslim ghi lại.
Rasul e nói trong một Hadith khác:
((إِيَّاكُمْ وَمُحْدَثَاتِ الأُمُورِ فَإِنَّ كُلَّ مُحْدَثَةٍ بِدْعَةٌ، وَكُلَّ بِدْعَةٍ ضَلاَلَةٌ))
“Ta khuyến cáo các ngươi việc cải biên tôn giáo, quả thật tất cả việc cải biên là Bid-a’h và tất cả Bid-a’h là sự lầm lạc.”([29]) Qua các bằng chứng này một lần nữa khẳng định rằng việc Bid-a’h làm cho niềm tin người Muslim sa sút mạnh mẽ.
Nếu như trong việc tổ chức sinh nhật Rasul e với mục đích cầu xin, khấn vái, cầu cứu với hi vọng được bình an, cầu may . . . thì lại là việc làm Shirk. Tương tự ai cầu xin: Hãy Rasul của Allah, xin hãy giúp tôi đánh thắng kẻ thù hoặc tin rằng Rasul e thông tin chuyện huyền bí như một số người thuộc nhóm Shi-a’h đã cho rằng Aly, Al-Hasan và Al-Husain biết được chuyện huyền bí. Tất cả đều rơi vào đại tội Shirk, họ là nhóm người phản đạo bởi đức tin cho dù có tổ chức sinh nhật hay không tổ chức.
Nhóm Al-Rafidhah dám khẳng định họ có mười hai vị Imam tin thông việc thiên cơ huyền bí, trong khi Allah lại phán:
﴿قُل لَّا يَعۡلَمُ مَن فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ ٱلۡغَيۡبَ إِلَّا ٱللَّهُۚ﴾ النمل: 65
{(Hỡi Muhammad) hãy báo với nhân loại: “Không một ai dù ở trên trời (như Thiên Thần) cũng như (Ma quỉ, loài người) ở dưới đất có thể biết được chuyện huyền bí thiên cơ, ngoại trừ Allah duy nhất (tin thông tất cả).”} Al-Naml: 65 (chương 27). Chẳng phải lời nói của họ đã bác bỏ lời phán này của Allah sao ? Đúng là chỉ cần lời nói đó đã đẩy họ rơi vào lầm lạc. Nếu như tổ chức sinh nhật để đọc về tiểu sử của Nabi e nhấn mạnh vào lúc ra đời và các cuộc chinh chiến của Người thì là một việc làm Bid-a’h gây tổn hại nặng về đức tin.
Trong những điều Bid-a’h khác là một số người không hiểu biết đã cho rằng trong tháng Safar (tức tháng 2 lịch Islam) là không nên đi xa bởi sẽ gặp nhiều may rủi. Lòng tin này đã biến con người Muslim rơi vào lầm lạc bởi Rasul e đã khẳng định:
((لاَ عَدْوَى وَلاَ طِيَرَةَ وَلاَ صَفَرَ وَلاَ هَامَةَ))
“(Trong Islam) không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay, tháng Safar không phải là tháng xấu và không có lời nói may rủi.”([30]) Hadith do Al-Bukhary và Muslim ghi lại. Riêng Muslim thì ghi thêm:
((وَلاَ نَوْءَ وَلاَ غُولَ))
“Không có vì sao nào cho mưa và không có lời nói may rủi.”([31])
Ai dám khẳng định bệnh tự lây lan là rơi vào sai lầm, nhưng đôi khi người bệnh và người khỏe ở gần nhau thì Allah làm cho người khỏe bị bệnh. Xưa kia khi người Ả-rập nghe Rasul e nói:
((لاَ عَدْوَى))
“Không có bệnh tự lây lan.” Thì người mọi người bảo: Thưa Rasul, khi con lạc đà mạnh và con lạc là bị ghẻ lở gần nhau là làm cho con mạnh khỏe bị ghẻ lở theo. Nghe vậy Rasul e hỏi tiếp:
((فَمَنْ أَعْدَى الأَوَّلَ ؟))
“Vậy con đầu tiên bị bệnh là do ai làm cho nó bệnh ?”([32])
Tất cả mọi biến chuyển đều nằm trong tầm tay và ý định của Allah, Ngài muốn cho ai bệnh là người đó bệnh như Rasul e đã nói:
((لاَ يُورِدَنَّ مُمْرِضٌ عَلَى مُصِحٍّ))
“Chắc chắn bệnh không thể tự lây lan từ người bệnh sang người khỏe.”([33]) nhưng con người cần tránh xa mọi nguyên nhân để tránh được hậu quả, bởi chắn chắc mọi việc không thể nào tự nhiên mà xảy ra:
﴿قُل لَّن يُصِيبَنَآ إِلَّا مَا كَتَبَ ٱللَّهُ لَنَا﴾ (سورة التوبة : 51)
{Hãy bảo chúng (Muhammad): “Chẳng có điều gì xảy đến cho chúng tôi ngoại trừ những gì Allah đã định sẵn cho chúng tôi.”} Al-Tawbah: 51 (chương 9).
Việc lẫn lộn giữ người bệnh và người khỏe là lý do truyền bệnh từ người sang người, cho nên Rasul e từng khuyến cáo tránh xa nguyên nhân để không gặp hậu quả và Rasul e nói:
((فَمَنْ أَعْدَى الأَوَّلَ ؟))
“Vậy con đầu tiên bị bệnh là do ai làm cho nó bệnh ?”
Con người thường hay cho rằng linh hồn người chết hiện về nhác người còn sống, về trả thù, về đòi nợ, đòi ăn... tất cả đều sai lầm bởi người đã chết không có khả năng quay về thế gian mà linh hồn của y nằm trong mộ và được hưởng thụ hay bị phạt, được thiên đàng hay bị hỏa ngục tùy vào việc làm của y trên trần gian. Còn việc hiện hồn nhác người là do ma quỉ ở bên cạnh mỗi người lúc còn sống làm chứ người đã chết hoàn toàn không thể trể về được.
Việc đoán may rủi dựa vào chim bay, nghe hoặc nhìn được giống như hừng sáng thấy quạ đen, lừa đen hoặc thấy gì đó không thích thì cho rằng hôm nay không thích hợp cho việc đi xa hoặc ký hợp đồng. Hoặc dựa vào ngày tháng năm sinh để đó định mệnh may rủi... tất cả đều là những việc làm Haram (bị cấm) trong giáo lý Islam, Allah phán:
﴿أَلَآ إِنَّمَا طَٰٓئِرُهُمۡ عِندَ ٱللَّهِ﴾ (الأعراف : 131)
{Chẳng phải là những tai họa và những rủi ro đều ở nơi Allah đó sao ?} Al-A’raaf: 131 (Chương 7), Allah nắm trong tay mọi việc tốt, xấu của thiên hạ, Ngài ban phát và cấm đoán tùy Ngài, chứ không phải như con người đã suy nghĩ.
Là một người Muslim tin tưởng thật sự vào Allah khi đã dự định làm gì đó hoặc khởi hành đi đâu thì cứ việc đi, không vì một điều mê tín dị đoan nào đó mà dừng lại mục đích đã định, hãy phó thác mọi việc cho Allah. Nếu do mê tín mà quay lại là đã rời vào tội tiểu Shirk.
Thí dụ về Bid-a’h: Tổ chức sinh nhật, xây mồ mã, xây Masjid lên mộ, Salah Al-Raghaa-ib, tất cả đều là Bid-a’h. Ngoài ra việc tổ chức tiệc trong đêm 27 tháng Rajab mà mọi người cho rằng đó là đêm Isra và Me’raaj (đi đêm và thăng thiên lên trời) và trong đêm giữa tháng Sha’baan. Đôi khi trong những ngày này có một số người lại nhịn chay vào ban ngày và thức trọn đêm để hành đạo nhằm thể hiện mục đích kính dâng Allah nhưng sự việc không có nguồn gốc cơ sở, không có Hadith xác thực cho sự việc. Cho nên đây là những điều Bid-a’h.
Tóm lại, tất cả việc hành đạo nhằm kính dâng Allah không có bất cứ bằng chứng Saheeh (xác thực) nào từ Qur’an, từ Sunnah của Rasul e thì nó là Bid-a’h bởi Rasul đã nói:
((مَنْ أَحْدَثَ فِي أَمْرِنَا هَذَا مَا لَيْسَ مِنْهُ فَهُوَ رَدٌّ))
“Ai tạo ra cái mới trong việc làm này của Ta (tức trong Islam) mà nó không có trong đạo thì việc làm đó bị trả lại y.”([34]) Hadith do Al-Bukhary và Muslim ghi lại từ bà A’-y-shah. Trong lần thuyết giảng Rasul e nói:
((وَشَرُّ الْأُمُورِ مُحْدَثَاتُهَا وَكُلُّ مُحْدَثَةٍ بِدْعَةٌ وَكُلُّ بِدْعَةٍ ضَلَالَةٌ))
“Và điều tồi tệ nhất chính là điều mới mẽ (trong tôn giáo), mọi điều mới (trong tôn giáo) là Bid-a’h, mọi điều Bid-a’h là sự lầm đường lạc lối.”([35]) Hadith do Muslim ghi lại từ ông Jaabir.
Là một người Muslim biết kính sợ Allah thì phải bỏ ngay mọi điều Bid-a’h mà bám chặt lấy Sunnah của Rasul e. Nếu chúng ta là người yêu thích việc hành đạo thì chỉ cần làm theo Sunnah là đủ rồi không nhất thiết phải làm theo những điều Bid-a’h rồi rước họa vào thân. Vả lại chúng ta muốn hành đạo là được Allah chấp nhận trong khi Allah không chấp nhận ngoại trừ đó là lệnh của Ngài hoặc của Rasul e, bởi Allah phán:
﴿ٱلۡيَوۡمَ أَكۡمَلۡتُ لَكُمۡ دِينَكُمۡ وَأَتۡمَمۡتُ عَلَيۡكُمۡ نِعۡمَتِي وَرَضِيتُ لَكُمُ ٱلۡإِسۡلَٰمَ دِينٗاۚ﴾ المائدة: ٣
{Ngày hôm nay, TA đã hoàn tất cho các ngươi tôn giáo của các ngươi và TA đã hoàn thành trọn vẹn cho các ngươi ân huệ của TA và TA đã hài lòng lấy Islam làm tôn giáo cho các ngươi.} Ma-i-dah: 3 (Chương 5). Allah đã ban cho cộng đồng Islam một tôn giáo hoàn hảo, không cần phải đến những điều Bid-a’h bậy bạ đó, hãy nghe đây lời di huấn của Rasul e:
((عَلْيْكُمْ بِسُنَّتِي وَسُنَّةِ الْخُلَفَاءِ الرَّاشِدِينَ الْمَهْدِيِّينَ عَضُّوا عَلَيْهَا بِالنَّوَاجِذِ))
“Ta chỉ thị cho các ngươi phải tuân theo đường lối Sunnah của Ta, và tuân theo sự hướng dẫn của những vị Khaleefah (thủ lĩnh) sau Ta. Bám chặt lấy nó và kiên quyết trung thành với nó.”([36])
Tín hữu Muslim thân mến, Islam không cần đến những điều Bid-a’h kinh tởm kia, chỉ cần biết bám lấy giáo lý đúng thật của Allah mà đi, biết dừng lại đúng ranh giới đã hoạch định và bỏ đi mọi điều thiên hạ đã cải biên, bởi Allah đã nhục mạ mọi điều Bid-a’h:
﴿أَمۡ لَهُمۡ شُرَكَٰٓؤُاْ شَرَعُواْ لَهُم مِّنَ ٱلدِّينِ مَا لَمۡ يَأۡذَنۢ بِهِ ٱللَّهُۚ﴾ الشورى: ٢١
{Hoặc phải chăng họ có những Thần Linh (do họ tôn thờ) đã thiết lập cho họ một tôn giáo trong khi Allah không cho phép (như thế).} Al-Shura: 21.
Thành tâm khấn vái Allah ban mọi điều tốt đẹp cho cộng đồng Islam, chấn chỉnh họ và ban họ kiến thức đúng thực về tôn giáo mình. Xin hãy che chở kéo họ ra khỏi mọi lầm lạc, mọi điều cải cách trong tôn giáo. Cầu xin bình an và phúc lành cho vị Nabi nhân hậu Muhammad, cùng gia quyến và tất cả bằng hữu của Người.
dkf
Những Bài Học Quí Giá Liên Quan Đến Đức Tin Imam([37])
بِسْمِ اللهِ الرَّحْمَنِ الرَّحِيمِ، الحَمْدُ لِلهِ وَلِيُّ الصَّالِحِينَ، وَلَا عُدْوَانَ إِلَّا عَلَى الظَّالِمِينَ، وَصَلَّى اللهُ وَسَلَّمَ عَلَى نَبِيِّنَا مُحَمَّدٍ وَعَلَى آلِهِ وَصَحْبِهِ أَجْمَعِيْنَ، وَبَعْدُ:
Nhân danh Allah, Đấng Rất Mực Độ Lượng, Đấng Rất Mực Khoan Dung. Alhamdulillah, xin muôn vàn tạ ơn Allah Đấng Bảo Hộ của nhóm người ngoan đạo, và chẳng có thù hằn ngoại trừ đối với nhóm người bất tuân. Cầu xin Allah bình an và phúc lành cho Nabi Muhammad của chúng ta, cho dòng dõi của Người cùng cho tất cả bằng hữu của Người, Amma ba'd:
Bài viết sẽ đưa ra vài bài học quí báu lien quan đến đức tin Imam:
Bài học đầu tiên: Niềm tin vào các vì sao, cái tinh tú trên trời và những vật thể khác.
Việc tin tưởng vào các vì sao, các ngủ hành, ngày tháng, địa danh linh thiêng đều là niềm tin bậy bạ ngoại trừ được giáo lý xác minh. Bởi đó là hành động của những nhà bói toán, nhà tiên tri, thầy bùa, thầy tướng số, những tín đồ Đa Thần và những ai tương tự như họ. Con người mắc phải sai lầm này là bị lũ Shaytaan trong số ma quỉ và con người thêu dệt cho họ, một khi con tim không chứa đựng kiến thức bổ ích, không niềm tin đúng thực thì con người bị chúng quyến rủ, dụ dỗ phải tin tưởng những điều bậy bạ và làm những việc không ra gì.
Chắc chắn một con tim rỗng sẽ luôn sẵn sàng chấp nhận tất cả không phân biệt đúng sai, ngoại trừ ai được Allah ban cho khác. Một khi kiến thức đúng thực về Islam lan truyền rộng rãi trong một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc và có nhiều ﷻ’lama bám lấy Qur’an và Sunnah, hết lòng hướng mọi người đến với chân lý thì ắt sẽ dập tắt được ngọn lửa của lũ Shaytaan kia. Lúc đó chúng sẽ tự động rút lui mà tìm đến chổ khác không có giáo lý đúng thật về Islam mà tiếp tục thống trị. Dù ở thời đại nào, nơi nào nếu dân trí tín đồ mù lòa với giáo lý đúng thật về Islam thì những niềm tin bậy bạ tại đó phát triển rất mạnh mẽ, họ sẵn sàng làm trái ngược giáo lý của Allah.
Vì vậy cộng đồng Islam rất cần đến kiến thức Islam đúng thực, kiến thức về Allah, về tôn giáo, về Nabi e, về Sunnah...
Niềm tin vào các vì sao, vào ngủ hành và những gì tương tự được chia làm nhiều loại
# Thứ nhất: Đại tội Shirk. Theo giới ﷻ’lama đồng cho rằng ai tin tưởng rằng chòm sao (gồm 12 ngôi sao), các ngủ hành, mặt trời, mặt trăng hoặc một người nào đó trong thiên hạ có quyền năng hoán chuyển vủ trụ hoặc quản lý một số việc trong vủ trụ. Đây là niềm tin xóa sạch đức tin của một người Muslim, một đại tội nguy hiểm nhất, bởi chỉ có Allah mới là Đấng Chúa Tể toàn vủ trụ, trong tay Ngài quyền cai quản mọi việc và hoán chuyển mọi vật theo ý Ngài muốn, không có Đấng Tạo Hóa nào ngoài Ngài, Allah phán:
﴿إِنَّ رَبَّكُمُ ٱللَّهُ ٱلَّذِي خَلَقَ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضَ فِي سِتَّةِ أَيَّامٖ ثُمَّ ٱسۡتَوَىٰ عَلَى ٱلۡعَرۡشِۖ يُغۡشِي ٱلَّيۡلَ ٱلنَّهَارَ يَطۡلُبُهُۥ حَثِيثٗا وَٱلشَّمۡسَ وَٱلۡقَمَرَ وَٱلنُّجُومَ مُسَخَّرَٰتِۢ بِأَمۡرِهِۦٓۗ أَلَا لَهُ ٱلۡخَلۡقُ وَٱلۡأَمۡرُۗ تَبَارَكَ ٱللَّهُ رَبُّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ٥٤﴾ الأعراف: ٥٤
{Quả thật, Thượng Đế của các ngươi là Allah Đấng đã tạo hóa các tầng trời và trái đất trong sáu ngày, sau đó Ngài ngự trị trên ngai vương. Ngài thay đổi ngày đêm một cách nhanh chóng, mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú (tất cả) đều phục mệnh Ngài. Thật tuyệt diệu thay Ngài, Ngài đã tạo hóa rồi chỉ huy tất cả! Thật phúc thay Allah, Thượng Đế của vũ trụ và muôn loài.} Al-A'raaf: 54 (chương 7), Allah phán ở chương Yunus rằng:
﴿إِنَّ رَبَّكُمُ ٱللَّهُ ٱلَّذِي خَلَقَ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضَ فِي سِتَّةِ أَيَّامٖ ثُمَّ ٱسۡتَوَىٰ عَلَى ٱلۡعَرۡشِۖ يُدَبِّرُ ٱلۡأَمۡرَۖ مَا مِن شَفِيعٍ إِلَّا مِنۢ بَعۡدِ إِذۡنِهِۦۚ ذَٰلِكُمُ ٱللَّهُ رَبُّكُمۡ فَٱعۡبُدُوهُۚ أَفَلَا تَذَكَّرُونَ ٣﴾ يونس: 3
{Quả thật, Thượng Đế của các ngươi là Đấng đã tạo hóa ra các tầng trời và trái đất trong vòng sáu ngày, rồi Ngài ngự trị trên ngai vương cao nhất, Ngài điều hành tất cả vạn vật và lời biện minh chỉ được thốt ra sau khi được lệnh Ngài. Đấy chính là Allah, Ngài là Thượng Đế của các ngươi, hãy tôn thờ Ngài. Chẳng lẽ các ngươi không biết suy nghĩ.} Yunus: 3 (chương 10).
Câu kinh một mực khẳng định rằng duy chỉ Allah Đấng Tối Cao mới là toàn quyền điều hành, quản lý, thống trị toàn vủ trụ, không có một Thiên Thần hay Rasul hay người ngoan đạo nào chia sẽ quyền điều hành này với Ngài. Cho nên, ai dám khư khư cho rằng có ai đó quản lý cùng Allah thì y là Kafir (kẻ phủ nhận đức tin về Islam).
Allah là Đấng duy nhất, Ngài là Đấng Tạo Hóa, Đấng Ban Bố, Ngài toàn quyền thống trị, không chia sẽ quyền thống trị đó với một ai, Ngài muốn sao thì ý Ngài, Ngài sở hữu các Đại Danh sạch sẽ và cao quí đến hoàn mỹ tuyệt đối, Allah phán:
﴿قُلۡ هُوَ ٱللَّهُ أَحَدٌ ١ ٱللَّهُ ٱلصَّمَدُ ٢ لَمۡ يَلِدۡ وَلَمۡ يُولَدۡ ٣ وَلَمۡ يَكُن لَّهُۥ كُفُوًا أَحَدُۢ ٤ ﴾ الإخلاص: ١ - ٤
{(Hỡi Muhammad) hãy nói (với những người Do Thái, người Thiên Chúa Giáo và những kẻ thờ đa thần): Ngài là Allah, Đấng duy nhất, Allah là Đấng tự hữu, Đấng độc lập mà tất cả (vạn vật) phải nhờ vả, Ngài không sinh đẻ ra ai và cũng không do ai sinh ra, và không một ai (hay vật gì) có thể so sánh với Ngài đặng.} Al-Ikhlaas (chương 112), Allah phán ở chương Al-Baqarah:
﴿وَإِلَٰهُكُمۡ إِلَٰهٞ وَٰحِدٞۖ لَّآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ ٱلرَّحۡمَٰنُ ٱلرَّحِيمُ ١٦٣﴾ البقرة: ١٦٣
{Và Thượng Ðế của các ngươi là một Thượng Ðế duy nhất, Không có Thượng Ðế nào khác, duy chỉ có Ngài (Allah), Ðấng rất mực nhân từ, rất mực Khoan dung.} Al-Baqarah: 163 (chương 2), và phán ở chương khác:
﴿لَيۡسَ كَمِثۡلِهِۦ شَيۡءٞۖ وَهُوَ ٱلسَّمِيعُ ٱلۡبَصِيرُ ١١﴾ الشورى: ١١
{Không một có cái gì giống Ngài cả. Trong khi Ngài là Ðấng Hằng Nghe, Ðấng Hằng Thấy.} Al-Shura: 11 (chương 42).
Bài học thứ hai: Lầm lạc cho những ai tin tường vào chòm sao và ngủ hành.
Những ai tin rằng có một vài vì sao có tác động mạnh đến vòng luân chuyển trời đất hoặc mặt trời, mặt trăng có quyền hành điều hành vủ trụ, rồi suy luận rằng Allah cho phép chúng có quyền thay đổi thế này, thế này... tất cả đều là niềm tin viễn vong.
Tương tự những người tôn thờ mồ mã, các Sheikh, người sùng đạo, bụt tượng cũng cho rằng Allah ban quyền cho những người này hoán chuyển được trời đất theo ý muốn của họ ban phát hoặc cấm đoán. Đây cũng là đức tin vô thực làm cho người vi phạm rơi vào tội phủ nhận đức tin Imam vào Allah.
Thêm một lần nữa khẳng định rằng duy chỉ Allah mới toàn quyền quản lý, điều hành, thống trị, hoán chuyển toàn bộ vủ trụ, Ngài ban phát hay cấm đoán tùy ý Ngài như Ngài ban cho con người tứ chi, khối óc, mắt mủi, gia đình, vợ con và nam giới luôn có dục vọng yêu thích phụ nữ; Ngài ban cho mặt trời chứa sức nóng mãnh liệt tác động đến sinh trưởng của cây cối; Ngài ban cho mặt trăng luân chuyển theo vĩ đạo riêng để con người nhận biết ngày tháng năm; Ngài ban cho nước, lửa đều có tính đặc thù riêng... tất cả đều là tạo vật của Allah, chúng dưới quyền điều hành của Ngài.
Bài học thứ ba: Liên quan đến luân chuyển không gây ảnh hưởng.
Sự luân chuyển của các vì sao, mặt trời, mặt trăng nhằm thể hiện các mùa trong năm, thời vụ gieo trồng gặt hái, các hướng đông tây, hướng Qiblah, giờ Salah . . . tất cả kiến thức về thiên văn, kiến thức này được phép trao dồi để phân biệt được thời vụ mà gieo trồng đúng mùa và trúng mùa. Loại kiến thức này rất hữu ích cho con người như Allah đã phán:
﴿وَهُوَ ٱلَّذِي جَعَلَ لَكُمُ ٱلنُّجُومَ لِتَهۡتَدُواْ بِهَا فِي ظُلُمَٰتِ ٱلۡبَرِّ وَٱلۡبَحۡرِۗ﴾ الأنعام: 97
{Và Allah đã tạo ra các vì sao để các ngươi dựa vào chúng nhận biết hướng duy chuyển trong đêm khi ở trên cạn và ngoài khơi.} Al-An-a'm: 97 (chương 6), Allah phán ở chương khác:
﴿وَعَلَٰمَٰتٖۚ وَبِٱلنَّجۡمِ هُمۡ يَهۡتَدُونَ ١٦﴾ النحل: 16
{Và các dấu hiệu và bằng các vì sao (trên trời) mà thiên hạ định hướng được mục tiêu chính xác.} Al- Nahl: 16 (chương 16).
Lúc này là lúc thích hợp nhắc về Hadith mà Rasul e đã nói trong lần thuyết giảng vào một ngày trời mưa:
((هَلْ تَدْرُونَ مَاذَا قَالَ رَبُّكُمْ ؟))
“Các ngươi có biết rằng Thượng Đế đã phán gì không?” Mọi người đáp: Chỉ có Allah và Rasul mới tận tường. Rasul e tiếp:
((أَصْبَحَ مِنْ عِبَادِى مُؤْمِنٌ بِى وَكَافِرٌ، فَأَمَّا مَنْ قَالَ: مُطِرْنَا بِفَضْلِ اللهِ وَرَحْمَتِهِ فَذَلِكَ مُؤْمِنٌ بِى وَكَافِرٌ بِالْكَوْكَبِ، وَأَمَّا مَنْ قَالَ: بِنَوْءِ كَذَا وَكَذَا فَذَلِكَ كَافِرٌ بِى وَمُؤْمِنٌ بِالْكَوْكَبِ))
“Trong đám bầy tôi TA có người tin tưởng TA và có người phủ nhận TA. Ai nói: Nhờ hồng phúc và lòng độ lượng của Ngài mà trời đổ mưa, đó là người tin tưởng vào TA và phủ nhận vì sao; còn ai nói: Trời đổ mưa là do vì sao đó, vì sao này tạo nên, đó là kẻ phủ nhận TA và tin tưởng và vì sao.”([38])
Hadith đã phủ nhận đức tin đối với ai khư khư cho rằng trời mưa là do một vì sao nào đó trên bầu trời tạo nên hoặc một tinh tú nào đó hoán chuyển, còn người có đức tin Imam vào Allah thì lại khẳng định rằng trời đổ mưa là do hồng phúc và lòng khoang dung của Allah ban cho loài người.
Cũng trong Hadith khẳng định rằng các chòm sao không có khả năng làm cho mưa hay không hoặc mùa màng có thuận lợi hay không, tất cả đều do Allah duy nhất điều hành mưa gió và mùa màng theo ý chỉ của Ngài. Các chòm sao, mặt trời, mặt trăng chỉ trang hoàng bầu trời thêm đẹp và để chỉ hướng cho con người, để con người phân biệt ngày tháng và các mùa trong năm khi ở trên cạn lẫn trên biển.
Giới ﷻ’lama phân biệt hai câu nói:
Được phép: Khi chòm sao đó xuất hiện là trời sẽ mưa, hoặc sẽ như thế này.
Không được phép: Đó là chòm sao làm cho trời mưa hoặc thời tiết phải thế như này, thế này.
Câu nói đầu được phép là bởi theo chu kỳ hằng năm khi đến tháng nhất định nào đó là chòm sao này xuất hiện ở hướng này, hướng này và thời tiết sẽ như vậy như vậy. Còn câu nói thứ hai là chính chòm sao đó cho quyền hoán chuyển trời đất khi chúng xuất hiện. Chúng ta cần phải phân biệt rõ hai câu nói.
Đến đây ai dám khẳng định trời mưa là do một chòm sao hay một tinh tú nào hay một người nào làm ra là đã phạm tội phủ nhận đức tin Imam. Cầu xin Allah ban thành công cho tất cả.
Bài học thứ tư: Về người sử dụng bùa ngải và thầy bùa.
Chắc chắn rằng ai tìm đến thầy bùa ngải, thầy chiêm tinh, thầy bói toán hoặc ai tương tự như họ mà hỏi thăm là điều cấm kỵ trong Islam, bởi họ tự xưng thấu hiểu mọi việc, có khả năng thay đổi định mệnh, vủ trụ chỉ dựa vài vạch dưới đất, đếm đồng tiền, xem chỉ tay hoặc hỏi và câu hỏi. Lập tức họ sẽ báo cho mọi người về ngày chết, tên tuổi cha mẹ hoặc sẽ gặp phải nạn kiếp này. Tất cả lời nói của họ đều vô thực. Nabi e đã cấm tín đồ hỏi hang tin tưởng vào tất cả lời nói của họ như có Hadith do ông Mu-a’wiyah bin Al-Hikam đến nói với Nabi e: Thưa Rasul của Allah, trong chúng tôi có các thầy bói. Rasul e nói:
((لاَ تَأْتُوهُمْ))
“Không được tìm đến họ.” ông nói tiếp: trong chúng tôi có người đón may rủi.
((ذَلِكَ شَىْءٌ يَجِدُهُ فِى صَدْرِهِ فَلاَ يَصُدَّنَّكُمْ))
“Đó là điều mà các người nhận thấy trong lòng mình nhưng đừng để nó cấm cản niềm tin các ngươi.”([39])
Có Hadith khác Nabi e đã nói:
((مَنْ أَتَى عَرَّافًا فَسَأَلَهُ عَنْ شَىْءٍ لَمْ تُقْبَلْ لَهُ صَلاَةٌ أَرْبَعِينَ لَيلَةً))
“Người (Muslim) nào tìm đế nhà chiêm tinh để tìm hiểu thông tin thì lễ Salah của y không được (Allah) chấp nhận trong bốn mươi ngày (đêm).”([40])
Theo Muslim ghi lại từ một số vợ của Nabi e, Người nói:
((مَنْ أَتَى عَرَّافاً أَوْ كَاهِناً فَصَدَّقَهُ بِمَا يَقُولُ فَقَدْ كَفَرَ بِمَا أُنْزِلَ عَلَى مُحَمَّدٍ e))
“Người (Muslim) nào tìm đến nhà tiên đoán hoặc thầy bói và tin tưởng vào lời lẽ chúng nói thì y đã phủ nhận hết tất cả mọi thông tin được mặc khải cho Muhammad e.”([41])
Và Rasul e lập lại đến ba lần câu:
((الطِّيَرَةُ شِرْكٌ))
“Đón may rủi là đại tội Shirk.”([42])
Qua các Hadith Rasul e đã giải thích rằng các việc làm mê tín dị đoan, tin vào may rủi, tin vào bói toán là các việc làm nguy hại đến đức tin và đôi khi xóa hẳn cả đức tin. Bởi có Hadith ghi nhận rằng ma quỉ lên tầng trời hạ giới nghe lén các Thiên Thần giao nhiệm vụ cho nhau nhưng chưa kịp nghe thì bị đánh đuổi, trở về hạ giới chúng dựa vào một lời nói nghe được trên trời mà thêu dệt lên cả trăm từ dốc láo.([43])
Cấp lãnh đạo Muslim cần phải kịp thời ngăn chặn, khuyến cáo tín đồ về tầm nguy hiểm của việc tự nhận thông hiểu huyền cơ. Bởi không có một ai có kiến thức về huyền cơ ngoại trừ Allah duy nhất, Allah phán:
﴿قُل لَّا يَعۡلَمُ مَن فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ ٱلۡغَيۡبَ إِلَّا ٱللَّهُۚ﴾ النمل: 65
{(Hỡi Muhammad) hãy báo với nhân loại: “Không một ai dù ở trên trời (như Thiên Thần) cũng như (Ma quỉ, loài người) ở dưới đất có thể biết được chuyện huyền bí thiên cơ, ngoại trừ Allah duy nhất (tin thông tất cả).”} Al-Naml: 65 (chương 27). Có lần Jibreel đã hỏi Rasul bao giờ đến ngày tận thế thì Người đáp:
((مَا الْمَسْئُولُ عَنْهَا بِأَعْلَمَ مِنْ السَّائِلِ))
“Tôi không biết, vấn đề đó người hỏi biết rõ hơn tôi.”([44]) tức cả tôi và ông cũng không ai rõ bao giờ đến ngày tận thế, Allah phán:
﴿يَسَۡٔلُونَكَ عَنِ ٱلسَّاعَةِ أَيَّانَ مُرۡسَىٰهَاۖ قُلۡ إِنَّمَا عِلۡمُهَا عِندَ رَبِّيۖ لَا يُجَلِّيهَا لِوَقۡتِهَآ إِلَّا هُوَۚ ثَقُلَتۡ فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِۚ لَا تَأۡتِيكُمۡ إِلَّا بَغۡتَةٗۗ يَسَۡٔلُونَكَ كَأَنَّكَ حَفِيٌّ عَنۡهَاۖ قُلۡ إِنَّمَا عِلۡمُهَا عِندَ ٱللَّهِ وَلَٰكِنَّ أَكۡثَرَ ٱلنَّاسِ لَا يَعۡلَمُونَ ١٨٧ قُل لَّآ أَمۡلِكُ لِنَفۡسِي نَفۡعٗا وَلَا ضَرًّا إِلَّا مَا شَآءَ ٱللَّهُۚ وَلَوۡ كُنتُ أَعۡلَمُ ٱلۡغَيۡبَ لَٱسۡتَكۡثَرۡتُ مِنَ ٱلۡخَيۡرِ وَمَا مَسَّنِيَ ٱلسُّوٓءُۚ إِنۡ أَنَا۠ إِلَّا نَذِيرٞ وَبَشِيرٞ لِّقَوۡمٖ يُؤۡمِنُونَ ١٨٨ ﴾ الأعراف: ١٨٧ - ١٨٨
{Họ hỏi Ngươi (Muhammad) về ngày tận thế chừng nào sẽ xảy ra ? Hãy bảo họ: “Duy chỉ Thượng Đế của Ta biết rõ nó, chỉ riêng Ngài mới có thẩm quyền tiết lộ thời điểm của nó. Nó sẽ nặng nề (đối với mọi vật) trong các tầng trời và trái đất nhưng nó sẽ xảy đến với các người một cách bất ngờ.” Họ hỏi Ngươi làm như thể Ngươi quen thuộc với nó lắm. Hãy bảo họ: “Chỉ riêng Allah biết rõ về nó.” * Hãy bảo họ: “Ta không có quyền quyết định điều lợi hoặc hại cho chính bản thân của Ta trừ phi điều nào Allah muốn. Và nếu Ta biết điều vô hình thì chắc chắn Ta sẽ tom góp nhiều điều tốt cho Ta và Ta sẽ không gặp một điều bất hạnh nào. Chẳng qua Ta chỉ là một người khuyến cáo (hành phạt hỏa ngục) và thông báo tin mừng (thiên đàng) đến với nhóm người có lòng tin nơi (Allah).} Al-A'raaf: 187 - 188 (chương 7). Allah phán ở chương khác:
﴿يَسَۡٔلُونَكَ عَنِ ٱلسَّاعَةِ أَيَّانَ مُرۡسَىٰهَا ٤٢ فِيمَ أَنتَ مِن ذِكۡرَىٰهَآ ٤٣ إِلَىٰ رَبِّكَ مُنتَهَىٰهَآ ٤٤﴾ النازعات: 42 - 44
{Chúng hỏi Ngươi (Muhammad) về ngày giờ tận thế bao giờ xảy ra? * Ngươi sẽ dựa vào đâu mà kể cho chúng biết? * Chỉ có Thượng Đế của Ngươi mới tận tường về nó.} Al-Na-zi-at: 42 - 41 (chương 79).
Trong thời của ﷻ’mar thống lĩnh đã giết những thầy bùa, thầy phù thủy, chôn đại xác họ nơi sa mạc không hành lễ tắm rửa bởi theo Islam họ là người phản đạo do dám tự nhận thấu hiểu huyền bí.
Trong những việc làm của thầy bùa, thầy phù thủy là làm bùa yêu, bùa ghét, bùa chia cắt vợ chồng, gia đình và người thân... những ông thầy không thể tự mình làm được mà cần phải trợ giúp của ma quỉ cung cấp thông tin cho và ma quỉ không chịu cho con người sai bảo trừ phi tôn thờ chúng, cúng bái chúng.
﴿وَيَوۡمَ يَحۡشُرُهُمۡ جَمِيعٗا يَٰمَعۡشَرَ ٱلۡجِنِّ قَدِ ٱسۡتَكۡثَرۡتُم مِّنَ ٱلۡإِنسِۖ وَقَالَ أَوۡلِيَآؤُهُم مِّنَ ٱلۡإِنسِ رَبَّنَا ٱسۡتَمۡتَعَ بَعۡضُنَا بِبَعۡضٖ وَبَلَغۡنَآ أَجَلَنَا ٱلَّذِيٓ أَجَّلۡتَ لَنَاۚ قَالَ ٱلنَّارُ مَثۡوَىٰكُمۡ خَٰلِدِينَ فِيهَآ إِلَّا مَا شَآءَ ٱللَّهُۗ ١٢٨﴾ الأنعام: 128
{Và vào ngày phán xét tất cả bọn chúng (loài người và ma) đều được tập trung, rồi phán bảo: “Này loài ma, các người đã cám dỗ được rất nhiều người (quy phục tôn thờ các ngươi trên cuộc sống trần gian).” Những người nghe theo lời ma đáp: “Lạy Thượng Đế, (ở trần gian) chúng tôi đã sống chung chia sẽ cho nhau đến khi mãn tuổi thọ mà Ngài đã ấn định cho chúng tôi.” Allah phán: “Nay đây hỏa ngục là nơi ở muôn đời cho tất cả các ngươi trừ phi Allah muốn khác hơn.”} Al-An-a'm: 128 (chương 6).
Cộng đồng Muslim cần phải chú ý, đừng quá cả tin lời mật ngọt của những thầy bói kẻo tiền mất tật mang. Để lấy lòng tin họ cho rằng mình chữa bệnh bằng Qur’an nhưng thật ra là sử dụng ma quỉ để che mắt thiên hạ. Trong những cách chữa trị của họ là cho tôi biết tên mẹ anh (chị, ông, bà), mang đến những thứ này, thứ này vào lần tới rồi tôi sẽ cho biết bệnh và thuốc đặc trị. Nhưng thật ra họ chẳng làm được gì mà chỉ sử dụng ma thuật để bòn tiền các bạn mà thôi. Ai tin vào họ là đã tự xóa đi đức tin của bản thân mình.
Đôi khi không cần đến họ mà đức tin của người Muslim bị xóa, là những ai mực mực tin rằng những ông thầy này có khả năng chữa bách bệnh bằng những phương thuốc cổ truyền trong khi họ biết đó là những thầy bùa, thầy phù thủy thì họ đã rơi vào lời khuyến cáo của Rasul e rằng:
((لَيْسَ مِنَّا مَنْ تَطَيَّرَ أَوْ تُطِيَّرَ لَهُ، أَوْ تَكَهَّنَ أَوْ تُكِهِّنَ لَهُ، أَوْ سَحَرَ أَوْ سُحِرَ لَهُ))
“Trong cộng đồng Ta không có việc đoán may rủi hoặc nhờ người đoán may rủi; tự bói hoặc tìm thầy bói; sử dụng bùa hoặc tìm đến thầy bùa.”([45])
Islam không cấm người bệnh tìm thầy chữa trị nhưng không cần tìm đến các thầy lang bâm đó, nếu có bệnh về cơ thể phải tìm đến các y bác sĩ để khám và chữa trị, nếu các loại bệnh khác thì chỉ cần áp dụng theo cách chữa trị mà Rasul e đã di huấn lại là đủ không cần dạy dột làm theo đều bậy bạ nguy hại đến đức tin Imam, Allah phán:
﴿وَٱتَّبَعُواْ مَا تَتۡلُواْ ٱلشَّيَٰطِينُ عَلَىٰ مُلۡكِ سُلَيۡمَٰنَۖ وَمَا كَفَرَ سُلَيۡمَٰنُ وَلَٰكِنَّ ٱلشَّيَٰطِينَ كَفَرُواْ يُعَلِّمُونَ ٱلنَّاسَ ٱلسِّحۡرَ وَمَآ أُنزِلَ عَلَى ٱلۡمَلَكَيۡنِ بِبَابِلَ هَٰرُوتَ وَمَٰرُوتَۚ وَمَا يُعَلِّمَانِ مِنۡ أَحَدٍ حَتَّىٰ يَقُولَآ إِنَّمَا نَحۡنُ فِتۡنَةٞ فَلَا تَكۡفُرۡۖ فَيَتَعَلَّمُونَ مِنۡهُمَا مَا يُفَرِّقُونَ بِهِۦ بَيۡنَ ٱلۡمَرۡءِ وَزَوۡجِهِۦۚ وَمَا هُم بِضَآرِّينَ بِهِۦ مِنۡ أَحَدٍ إِلَّا بِإِذۡنِ ٱللَّهِۚ﴾ البقرة: 102
{Và bọn chúng đã nghe và làm theo lời cám dỗ (ngọt bùi) của Shaytaan (ma quỷ) nói lệch lạc về quyền lực của Rasul Sulaymaan, trong khi đó Rasul Sulaymaan không hề phủ nhận đức tin (nơi Allah), ngược lại chỉ có lũ Shaytaan chúng đã phủ nhận niềm tin (vào Allah), chúng đã dạy loài người bùa ngãi đã được ban xuống cho hai Thiên Thần Harut và Marut tại Baabeel (Ba bi lôn). Nhưng khi hai Thiên Thần này dạy bùa ngãi cho mọi người thì họ luôn bảo rằng: “Chúng tôi chỉ mang bùa ngãi đến để thử thách các ngươi (các ngươi chớ học hỏi bởi chính bùa ngãi này sẽ) hủy bỏ niềm tin Iman (vào Allah) của các ngươi.” Tuy nhiên loài người vẫn cứ học từ hai Thiên Thần đó toàn những bùa ngãi dùng để chia ly vợ chồng. Và (những bùa ngãi đó) sẽ không làm hại được ai trên đời này ngoại trừ được Allah ưng thuận.} Al-Baqarah: 102 (chương 2). Câu Kinh khẳng định thêm rằng bùa chỉ có tác dụng khi được Allah ưng thuận chứ không phải lúc nào cũng gây hại được người khác. Không chỉ có bùa mà tất cả mọi biến hóa trong xã hội, trong vủ trụ đều do Allah duy nhất quyết định, không vật việc gì lại kháng lệnh Ngài.
Tương tự, Islam cấm tin đồ tin vào việc may rủi như thấy chim quạ, chim cú hoặc điều gì đó không thích vào sáng sớm, hoặc cử thứ ba, mồng 5, ngày 14, ngày 23, tháng 7. . . tất cả đều là những việc làm ảnh hưởng xấu đến đức tin của người Muslim. Một khi các bạn thấy điều gì đó không ưa thích thì hãy làm theo lời di huấn của Rasul e: “Một khi các ngươi gặp phải điều không ưa thích hãy cầu xin:
((اللَّهُمَّ لاَ يَأْتِى بِالْحَسَنَاتِ إِلاَّ أَنْتَ، وَلاَ يَدْفَعُ السَّيِّئَاتِ إِلاَّ أَنْتَ، وَلاَ حَوْلَ وَلاَ قُوَّةَ إِلاَّ بِكَ))
“Ol lo hum ma ka yá ti bil ha sa ha ti il la an ta, wa la yad fa u’s sai yi a ti il la an ta, wa la haw la wa la qu wa ta il la bik.”([46]) Hoặc nói:
((اللَّهُمَّ لاَ خَيْرَ إِلاَّ خَيْرُكَ، وَلاَ طَيْرَ إِلاَّ طَيْرُكَ، وَلاَ إِلَهَ غَيْرُكَ))
“Ol lo hum ma ka khoi ro il la khoi ruk, wa la toi ro il toi ruk, wa la i la ha roi ruk.”([47])
Là người Muslim có niềm tin Imam thật thụ vào Đấng Tạo Hóa Allah thì phó thác mọi việc cho Allah sau khi đã làm đủ lý do, không quan tâm đến các lý do đã làm, bởi thành bại là do Allah duy nhất quyết định.
Một việc phó thác cho Allah cần phải hội tụ đủ hai điều khoản sau:
ü Thứ nhất: Tin trọn nơi Allah và hiểu rằng mọi việc xảy ra đều do Allah quyết định.
ü Thứ hai: Làm mọi lý do phù hợp với điều cần thiết như bệnh phải tìm bác sĩ để khám và uống thuốc, muốn có tiền phải lao động, muốn có con phải lập gia đình . . . phải hội tụ hai điều tin tưởng số phận và làm lý do.
Người Muslim phải thấu hiểu rằng bệnh là do Allah ban xuống nhưng muốn khỏi bệnh cần phải chữa trị phù hợp, muốn hết khát phải uống nước, muốn hết đói phải ăn, muốn hết sợ phải tìm nơi an toàn, muốn chống trộm phải đóng cửa cẩn thận, muốn hết lạnh phải sưởi ấm mặc thêm áo. . . một khi đã làm đủ lý do ắt sẽ được toại nguyện như Nabi e đã nói:
((احْرِصْ عَلَى مَا يَنْفَعُكَ وَاسْتَعِنْ بِاللهِ وَلاَ تَعْجِزْ، وَإِنْ أَصَابَكَ شَىْءٌ فَلاَ تَقُلْ: لَوْ أَنِّى فَعَلْتُ كَانَ كَذَا وَكَذَا. وَلَكِنْ قُلْ: قَدَرُ اللهُ وَمَا شَاءَ فَعَلَ. فَإِنَّ "لَوْ" تَفْتَحُ عَمَلَ الشَّيْطَانِ))
“Hãy cố làm lấy những gì có lợi cho anh rồi phó thác cho Allah và chớ có lười. Nếu sự việc bất thành thì đừng nói: Nếu như tôi làm thế này thế này sẽ không thất bại, mà hãy nói: Mọi việc là do Allah ấn định và nay đã thành, bởi chữ “Nếu” là cánh cửa mở lối cho Shaytaan quấy rối.”([48])
Người Muslim cần phải khám và chữa bệnh khi bị bệnh, khi kết quả trái ngược ý muốn thì hãy nói:
((إِنَّا لِلهِ وَإِنَّا إِلَيْهِ رَاجِعُونَ، قَدَرَ اللهُ وَمَا شَاءَ فَعَلَ))
“In na lil la hi wa in na i lai hi ro ji u’n. Qa da rul lo hi ma sha a fa a’l.”([49]) chứ đừng nói: Nếu như tôi tìm đến bác sĩ này, uống loại thuốc này. Ngoài ra người Muslim cần phải mua bán giao dịch, khi bị lỗ không được tự trách giá như tôi mua thứ này và bán ở đây mà hãy nói: “In na lil la hi wa in na i lai hi ro ji u’n. Qa da rul lo hi ma sha a fa a’l.” Bởi những gì xảy ra đều nằm trong dự định của Allah, người Muslim chỉ được phép chấp nhận chứ không được phản đối. Cầu xin Allah ban thành công cho tất cả.
Bài học thứ năm: Nhiệm vụ phải làm theo Sunnah và tầm quan trọng của Sunnah trong Islam.
Sunnah được xem là nguồn gốc thứ hai của bộ giáo lý Islam, được xếp sau Thiên Kinh Qur’an được tất cả ﷻ’lama (học giả) Islam công nhận. Sunnah là một bộ giáo lý riêng biệt nhằm hỗ trợ giải thích phân tích Qur’an thêm rõ ràng, là nhân chứng cho tất cả tín đồ. Ai dám chống đối, phủ nhận hoặc cho rằng được phép sàn lọc lại những phần Sunnah phù hợp với thời hiện đại hoặc chỉ cần Qur’an là đủ là y đã rơi vào sự lầm lạc đen tối, một người phản đạo tự xóa đức tin Imam bởi lời nói này. Bởi lời nói này đã bác bỏ lời phán của Allah, bác bỏ chỉ thị của Rasul e, kháng lại lệnh Allah là tất cả tín đồ phải bám lấy Sunnah, tuyệt đối không được kháng cự.
Trong bộ luật Islam có ba nguồn gốc được giới ﷻ’lama (học giả) đồng thống nhất tính xác thực và hiệu lực:
Ø Thứ nhất: Thiên Kinh Qur’an.
Ø Thứ hai: Sunnah của Rasul Muhammad e.
Ø Thứ ba: Sự nhất trí của toàn thể ﷻ’lama (học giả) Islam.
Giới ﷻ’lama chỉ bất đồng ý kiến đối với các bằng chứng khác quan trọng nhất là Qiyaas (so sánh), theo đại đa số ﷻ’lama chấp nhận đây là nguồn gốc thứ tư khi đã hội tụ đủ điều kiện.
Riêng về Sunnah, không hề có bất cứ tranh cải nào dù nhỏ, đây là nguồn gốc cơ sở thứ hai bắt buộc tín đồ, đúng hơn là cộng đồng phải trao dồi, học hỏi và làm theo Sunnah một khi Sunnah đó được truyền lại đúng từ Rasul e. Không một tín đồ nào dám phản bác ngoại trừ ở giai đoạn giữ của Islam có nhóm Al-Khawaarij dám phủ nhận đức tin của rất nhiều Sahabah (bằng hữu của Rasul e), họ chỉ công nhận Qur’an bởi họ đã nghỉ xấu về Sahabah. Sau đó họ được nhóm Al-Rafidhah ủng hộ và bảo: Không có bằng chứng nào được công nhận ngoại từ được truyền lại từ những người thân của Rasul e còn những đường truyền khác không được công nhận.
Sau họ có rất nhiều nhóm phái các bắt chước được gọi là Al-Qaramitah, họ cho rằng họ mới là người thông thạo Qur’an, họ chỉ dùng Qur’an làm bằng chứng còn Sunnah họ bất cần bởi Sunnah được viết sau Rasul với thời gian rất dài nên con người có sai sót, có nhầm lẫn. . . đây quả là lời nói phiến diện. Nếu Rasul e không có năng lực làm gương, làm lãnh đạo để chỉ thị thiên hạ thì lệnh của Allah phán trong Qur’an còn có giá trị gì nữa !!!
Nabi e đã từng ra lệnh cho tín đồ truyền bá Sunnah của Người chứng tỏ làm theo Sunnah là bắt buộc và việc tuân theo lệnh Người là nhiệm vụ của toàn thể tín đồ Muslim giống như phải tuân lệnh Allah vậy. Nếu như bỏ công nghiên cứu Qur’an ắt sẽ thấy được lệnh này rất rõ ràng điển hình như Allah phán ở chương Ali I’mraan:
﴿وَٱتَّقُواْ ٱلنَّارَ ٱلَّتِيٓ أُعِدَّتۡ لِلۡكَٰفِرِينَ ١٣١ وَأَطِيعُواْ ٱللَّهَ وَٱلرَّسُولَ لَعَلَّكُمۡ تُرۡحَمُونَ ١٣٢﴾ آل عمران: 131 - 132
{Và hãy sợ lửa (của hỏa ngục) đã được chuẩn bị sẵn cho những kẻ Kafir (vô đức tin) * Các người hãy tuân phục Allah và Rasul (Muhammad) để mong rằng cho các người được thương xót (cứu rỗi).} Ali I’mraan: 131 – 132 (chương 3). Allah đã gọp chung việc tuân lệnh Ngài và Rasul e chung lại và phối hợp với việc thương xót cứu rỗi.
Allah phán ở chương Al-Nisa:
﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ أَطِيعُواْ ٱللَّهَ وَأَطِيعُواْ ٱلرَّسُولَ وَأُوْلِي ٱلۡأَمۡرِ مِنكُمۡۖ فَإِن تَنَٰزَعۡتُمۡ فِي شَيۡءٖ فَرُدُّوهُ إِلَى ٱللَّهِ وَٱلرَّسُولِ إِن كُنتُمۡ تُؤۡمِنُونَ بِٱللَّهِ وَٱلۡيَوۡمِ ٱلۡأٓخِرِۚ ذَٰلِكَ خَيۡرٞ وَأَحۡسَنُ تَأۡوِيلًا ٥٩﴾ النساء: ٥٩
{Hỡi những người có đức tin! Hãy tuân lệnh Allah, hãy tuân lệnh Rasul (Muhammad) và cấp lãnh đạo (người Muslim) trong các người. Một khi các người có sự bất đồng ý kiến về bất cứ việc gì thì hãy cùng nhau quay trở lại với Allah và Rasul. Nếu các người là những người luôn tin tưởng vào Allah và vào ngày phán xử cuối cùng. Đó là lối giải cao minh và là sự phân tích chính xác.} Al-Nisa: 59 (chương 4). Thêm một lần nữa Allah ra lệnh tín đồ phải tuân lệnh Ngài và Rasul e của Ngài, bên cạnh đó tuân lệnh cấp lãnh đạo nếu lệnh đó khớp với Qur’an và Sunnah. Nhưng Allah lại khẳng định rằng chỉ có Qur’an và Sunnah mới là hai nguồn gốc chính để khi các ngươi có bất đồng ý kiến phải trở về với hai nguồn gốc này chứ Ngài không hề nhắc đến cấp lãnh đạo. Vậy, khi có tranh cải phải căn cứ vào Qur’an và Sunnah mà đưa ra quyết định cuối cùng.
ﷻ’lama nói: ý nghĩa việc {quay trở lại với Allah} tức trở lại nghiên cứu trong Qur’an, còn việc {quay trở lại... Rasul} là xin quyết định của Rasul e lúc sinh thời còn sau khi Người qua đời phải nghiên cứu Sunnah của Người. Cho thấy rằng Sunnah là nguồn gốc thứ hai riêng biệt với Qur’an, Allah phán:
﴿مَّن يُطِعِ ٱلرَّسُولَ فَقَدۡ أَطَاعَ ٱللَّهَۖ﴾ (النساء: 80)
{Ai vâng lời Sứ giả của Ngài thì coi như đã tuân lệnh Allah.} Al-Nisa: 80 (chương 4), Allah ở chương khác:
﴿ٱلَّذِينَ يَتَّبِعُونَ ٱلرَّسُولَ ٱلنَّبِيَّ ٱلۡأُمِّيَّ ٱلَّذِي يَجِدُونَهُۥ مَكۡتُوبًا عِندَهُمۡ فِي ٱلتَّوۡرَىٰةِ وَٱلۡإِنجِيلِ يَأۡمُرُهُم بِٱلۡمَعۡرُوفِ وَيَنۡهَىٰهُمۡ عَنِ ٱلۡمُنكَرِ وَيُحِلُّ لَهُمُ ٱلطَّيِّبَٰتِ وَيُحَرِّمُ عَلَيۡهِمُ ٱلۡخَبَٰٓئِثَ وَيَضَعُ عَنۡهُمۡ إِصۡرَهُمۡ وَٱلۡأَغۡلَٰلَ ٱلَّتِي كَانَتۡ عَلَيۡهِمۡۚ فَٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ بِهِۦ وَعَزَّرُوهُ وَنَصَرُوهُ وَٱتَّبَعُواْ ٱلنُّورَ ٱلَّذِيٓ أُنزِلَ مَعَهُۥٓ أُوْلَٰٓئِكَ هُمُ ٱلۡمُفۡلِحُونَ ١٥٧ ﴾ الأعراف: 157
{“Họ là những người đã bám theo vị Rasul (Muhammad) mù chữ (không biết đọc, không biết viết) mà họ đã tìm thấy trong Kinh Tawraah và Kinh Injeel đã được thiên khải cho chúng, vị Rasul này chỉ ra lệnh họ làm điều thiện phúc và ngăn cấm họ làm điều tội lỗi, Y cho phép họ dùng mọi thứ tốt đẹp, sạch sẽ và cấm họ dùng mọi thứ dơ bẩn, ô uế, không sạch sẽ, Y tháo gở gánh nặng cũng như giải phóng họ thoát khỏi gông cùng đã và đang đè nặng lên họ. Bởi thế, ai đã tin tưởng vào Y, ủng hộ Y, giúp đỡ Y và luôn bám theo mọi điều đã thiên khải cho Y thì chắc chắn họ là những người sẽ chiến thắng vinh quang.} Al-A’raaf: 157 (chương 7). Nguyên nhân chiến thắng là noi theo tấm gương của Nabi e, thế nên ai phản bác Sunnah và không noi theo tấm gương của Người thì không phải là người chiến thắng, bởi ở câu khi sau Allah phán:
﴿قُلۡ يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ إِنِّي رَسُولُ ٱللَّهِ إِلَيۡكُمۡ جَمِيعًا ٱلَّذِي لَهُۥ مُلۡكُ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِۖ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ يُحۡيِۦ وَيُمِيتُۖ فََٔامِنُواْ بِٱللَّهِ وَرَسُولِهِ ٱلنَّبِيِّ ٱلۡأُمِّيِّ ٱلَّذِي يُؤۡمِنُ بِٱللَّهِ وَكَلِمَٰتِهِۦ وَٱتَّبِعُوهُ لَعَلَّكُمۡ تَهۡتَدُونَ ١٥٨ ﴾ الأعراف: ١٥٨
{Hãy bảo họ (Muhammad): “Hỡi nhân loại! Ta là Rasul của Allah được cử phái đến cho tất cả mọi người. (Allah) là Đấng thống trị các tầng trời và trái đất, không có Thượng Đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Ngài, Đấng ban cho cái sống và cái chết. Bởi thế, hãy tin tưởng vào Allah và Rasul của Ngài một vị Nabi mù chữ đã hết lòng tin tưởng vào Allah, vào các lời mặc khải của Ngài. Các Ngươi hãy noi theo Y để may ra các ngươi được hướng dẫn đúng chân lý đích thực.”} Al-A’raaf: 158 (chương 7).
Allah phán ở chương Al-Noor, câu 54, câu 56 và câu cuối cùng rằng:
﴿قُلۡ أَطِيعُواْ ٱللَّهَ وَأَطِيعُواْ ٱلرَّسُولَۖ فَإِن تَوَلَّوۡاْ فَإِنَّمَا عَلَيۡهِ مَا حُمِّلَ وَعَلَيۡكُم مَّا حُمِّلۡتُمۡۖ وَإِن تُطِيعُوهُ تَهۡتَدُواْۚ وَمَا عَلَى ٱلرَّسُولِ إِلَّا ٱلۡبَلَٰغُ ٱلۡمُبِينُ ٥٤﴾ النور: ٥٤
{Hãy bảo chúng (Muhammad): “Các ngươi hãy tuân lệnh Allah và tuân lệnh Rasul (Muhammad Ta đây). Nếu như các ngươi quay mặt bỏ đi thì mỗi người chúng ta phải chịu trách nhiệm những gì đã từng làm.” Ôi giá như các ngươi vâng lệnh Y (Rasul Muhammad) là đã được hướng dẫn đúng chính đạo, bởi nhiệm vụ của một Rasul chỉ là công khai truyền đạt (lời mặc khải của Allah).} Al-Noor: 54 (chương 24).
﴿وَأَقِيمُواْ ٱلصَّلَوٰةَ وَءَاتُواْ ٱلزَّكَوٰةَ وَأَطِيعُواْ ٱلرَّسُولَ لَعَلَّكُمۡ تُرۡحَمُونَ ٥٦ ﴾ النور: ٥٦
{Và hãy dâng lễ Salah, xuất thuế Zakat và vâng lệnh Rasul để may ra các ngươi được (Allah) khoan dung.} Al-Noor: 56 (chương 24).
﴿فَلۡيَحۡذَرِ ٱلَّذِينَ يُخَالِفُونَ عَنۡ أَمۡرِهِۦٓ أَن تُصِيبَهُمۡ فِتۡنَةٌ أَوۡ يُصِيبَهُمۡ عَذَابٌ أَلِيمٌ ٦٣﴾ النور: ٦٣
{Bởi thế, hãy cảnh cáo những ai chống đối mệnh lệnh của Ngươi (Muhammad) nên biết rằng: nếu làm thế, chúng sẽ gặp phải hoạn nạn hay gặp phải một hình phạt đau đớn.} Al-Noor: 63 (chương 24).
Allah phán ở chương Ali I’mraan:
﴿قُلۡ إِن كُنتُمۡ تُحِبُّونَ ٱللَّهَ فَٱتَّبِعُونِي يُحۡبِبۡكُمُ ٱللَّهُ وَيَغۡفِرۡ لَكُمۡ ذُنُوبَكُمۡۚ وَٱللَّهُ غَفُورٞ رَّحِيمٞ ٣١﴾ آل عمران: ٣١
{Hãy bảo họ (Muhammad)! “Nếu các người thực sự yêu thương Allah thì hãy tuân lệnh Ta rồi sẽ được Allah yêu thương và tha tội cho các người, bởi Allah hằng tha thứ, vô cùng Khoan Dung.”} Ali I’mraan: 31 (chương 3).
Đối với những ai dám ngoảnh mặt với Sunnah là đang đứng trên bờ vực thẳm diệt vong như sẽ gặp nạn kiếp, phạm tội Shirk hoặc rơi vào tăm tối không lối thoát hoặc trừng trị đau đớn như Allah phán:
﴿وَمَآ ءَاتَىٰكُمُ ٱلرَّسُولُ فَخُذُوهُ وَمَا نَهَىٰكُمۡ عَنۡهُ فَٱنتَهُواْۚ وَٱتَّقُواْ ٱللَّهَۖ إِنَّ ٱللَّهَ شَدِيدُ ٱلۡعِقَابِ ٧﴾ الحشر: ٧
{Và vật gì do Rasul ban cho các người thì hãy nhận nó và vật gì bị Rasul cấm các người thì hãy tránh xa nó ngay. Các ngươi hãy kính sợ Allah, bởi Ngài rất mạnh bạo trong việc trừng phạt.} Al-Hashr: 7 (chương 59).
Các câu khi nhấn mạnh rằng bắt buộc tất tín đồ phải noi theo Sunnah của Rasul e, tất cả sự cứu rỗi, niềm hạnh phúc, thành quả đều nằm trong việc làm theo tấm gương Rasul e. Ai phủ nhận Sunnah là đã phủ nhận Qur’an, ai dám nói: Tôi chỉ làm theo Qur’an còn Sunnah thì không, đây chính là lời của một kẻ nói dối, là lời nói sai lầm và phủ nhận đức tin Imam. Bởi chính trong Qur’an ra lệnh tín đồ phải làm theo Sunnah và cấm tuyệt đối phản kháng lại Sunnah ai không làm theo tức đã không theo và không tin tưởng vào Qur’an. Bởi Sunnah là một phần của Qur’an, làm theo Sunnah là làm theo Qur’an, Qur’an và Sunnah là hai nguồn gốc có cùng một cơ thể sống không thể nào tách rời ra được.
Về Hadith chứng minh tín đồ phải làm theo Sunnah là được ghi nhận trong hai bộ Saheeh Al-Bukhary và Muslim từ Abu Hurairah dẫn lời Rasul e rằng:
((مَنْ أَطَاعَنِى فَقَدْ أَطَاعَ اللهَ، وَمَنْ عَصَانِى فَقَدْ عَصَى اللهَ، وَمَنْ يُطِعِ الأَمِيرَ فَقَدْ أَطَاعَنِى، وَمَنْ يَعْصِ الأَمِيرَ فَقَدْ عَصَانِى))
“Ai tuân lệnh Ta là đã tuân lệnh Allah và ai chống đối Ta là đã chống đối Allah; ai tuân lệnh lãnh đạo là đã tuân lệnh Ta và ai chống đối lãnh đạo là đã chống đối Ta.”([50])
Từ ông Abu Hurairah dẫn lời Nabi e rằng:
((كُلُّ أُمَّتِى يَدْخُلُونَ الْجَنَّةَ إِلاَّ مَنْ أَبَى))
“Tất cả tín đồ của Ta được vào thiên đàng ngoại trừ ai từ chối.” Có lời hỏi: Ai lại dám từ chối, thưa Rasul? Người đáp:
((مَنْ أَطَاعَنِى دَخَلَ الْجَنَّةَ وَمَنْ عَصَانِى فَقَدْ أَبَى))
“Ai tuân lệnh Ta được vào thiên đàng và ai bất tuân là đã từ chối.”([51]) Al-Bukhary.
Trong Sunan Abu Dawood và Saheeh Al-Haakim bằng đường truyền tốt, từ ông Al-Miqdaam bin Ma’di Kubr Al-Kandi dẫn lời Rasul e rằng:
((يُوشِكُ رَجُلٌ مُتَّكِئًا عَلَى أَرِيكَتِهِ يُحَدَّثُ بِحَدِيثٍ مِنْ حَدِيثِى فَيَقُولُ: بَيْنَنَا وَبَيْنَكُمْ كِتَابُ اللهِ فَمَا وَجَدْنَا فِيهِ مِنْ حَلاَلٍ حَلَّلْنَاهُ وَمَا وَجَدْنَا فِيهِ مِنْ حَرَامٍ حَرَّمْنَاهُ))
“Chẳng phải Ta được ban cho Kinh Sách và vật khác tương đồng với nó sao! Sắp bị diệt vong đối với kẻ ăn no trướng bụng ngồi dựa lưng bàn về lời mà Ta đã nói, y cho rằng: “Chúng ta chỉ làm theo Qur’an là đủ, những gì trong Qur’an cho là Halal chúng ta cho là Halal, còn những gì Qur’an cho là Haram thì chúng ta cho là Haram.””([52]) Kinh sách chính là Thiên Kinh Qur’an và vật tương đồng chính là Sunnah. Có đường truyền khác:
((يُوشِكُ رَجُلٌ مُتَّكِئًا عَلَى أَرِيكَتِهِ يُحَدَّثُ بِالأَمْرِ مِمَّا أَمَرْتُ بِهِ وَنَهَيْتُ عَنْهُ فَيَقُولُ: بَيْنَنَا وَبَيْنَكُمْ كِتَابُ اللهِ فَمَا وَجَدْنَا فِيهِ اتَّبَعْنَاهُ، أَلاَ وَإِنَّ مَا حَرَّمَ رَسُولُ اللهِ مِثْلُ مَا حَرَّمَ اللهُ))
“Sắp bị diệt vong đối với kẻ ăn no trướng bụng ngồi dựa lưng mà bàn về chỉ thị phải làm và bị cấm của Ta mà bảo: “Chúng ta chỉ cần Qur’an là đủ, những gì tìm thấy trong Qur’an thì chúng ta làm theo.” Chẳng phải lệnh cấm của Rasul giống như lệnh cấm của Allah sao!”
Nhiệm vụ chung của tín đồ Muslim là phải tôn trọng Sunnah của Rasul e, phải nhận biết tầm quan trọng của Sunnah đối với Islam rồi trao dồi, áp dụng theo khuôn khổ Islam cho phép. Sunnah dùng để giải thích, phân tích những gì Qur’an nói chưa rõ, chưa tận tường, nói chung chung, ai nghiên cứu Qur’an sẽ nhận thấy được điều này, bởi Allah đã phán:
﴿وَأَنزَلۡنَآ إِلَيۡكَ ٱلذِّكۡرَ لِتُبَيِّنَ لِلنَّاسِ مَا نُزِّلَ إِلَيۡهِمۡ وَلَعَلَّهُمۡ يَتَفَكَّرُونَ ٤٤﴾ النحل: ٤٤
{Đồng thời TA (Allah) đã mặc khải cho Ngươi (Muhammad) Thiên Kinh (Qur'an) để Ngươi loan báo với nhân loại những gì được mặc khải xuống cho họ, để may ra họ biết mà suy nghĩ.} Al-Nahl: 44 (chương 16). Nếu không có Sunnah thì làm sao con người lãnh ngộ được giáo lý của tôn giáo và ngụ ý của Qur’an?
Allah phán ở câu khác:
﴿ وَمَآ أَنزَلۡنَا عَلَيۡكَ ٱلۡكِتَٰبَ إِلَّا لِتُبَيِّنَ لَهُمُ ٱلَّذِي ٱخۡتَلَفُواْ فِيهِ وَهُدٗى وَرَحۡمَةٗ لِّقَوۡمٖ يُؤۡمِنُونَ ٦٤﴾ النحل: ٦٤
{Và TA (Allah) không ban Kinh Sách (Qur'an) cho Ngươi (Muhammad) ngoại trừ là để Ngươi giải thích cho nhân loại về những điều họ bất đồng với nhau, Nó là sự chỉ đạo (chân lý) và là sự cứu rỗi cho nhóm người có đức tin.} Al-Nahl: 64 (chương 16). Ngoài việc dùng Sunnah giải thích Qur’an, Sunnah còn dùng để phân xử tranh cải giữa các tín đồ, cho thấy Sunnah không thể thiếu trong cuộc sống hành đạo của người Muslim cho đến ngày tận thế. Nhiệm vụ của Rasul e không dành riêng cho một sắc tộc nào mà là vị Rasul chung cho toàn thể loài người, Allah phán:
﴿وَمَآ أَرۡسَلۡنَٰكَ إِلَّا رَحۡمَةٗ لِّلۡعَٰلَمِينَ ١٠٧ ﴾ (سورة الأنبياء: 107)
{Và TA gửi Ngươi (Muhammad) đến cốt chỉ để mang đến hồng phúc cho toàn nhân loại.} Al-Ambiya: 107 (chương 21), Allah phán ở chương khác:
﴿وَمَآ أَرۡسَلۡنَٰكَ إِلَّا كَآفَّةٗ لِّلنَّاسِ بَشِيرٗا وَنَذِيرٗا﴾ سبأ: ٢٨
{Và TA (Allah) chỉ cử phái Ngươi (Muhammad) làm một người mang tin mừng đồng thời là một Người cảnh cáo cho (tất cả) nhân loại.} Saba: 28 (chương 34), Allah phá ở chương khác:
﴿قُلۡ يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ إِنِّي رَسُولُ ٱللَّهِ إِلَيۡكُمۡ جَمِيعًا ﴾ الأعراف: ١٥٨
{Hãy bảo họ (Muhammad): “Hỡi nhân loại! Ta là Rasul của Allah được cử phái đến cho tất cả mọi người.”} Al-A’raaf: 158 (chương 7). Rasul Muhammad e là Rasul chung của tất cả ma quỉ và loài người không phân biệt giàu nghèo, hèn sang, Ả-rập hay không phải Ả-rập, thường dân hay lãnh đạo cho đến ngày tận thế, Người là vị Rasul cuối cùng được Allah phái đến trần gian. Thế nên Sunnah của Người phải dùng để phân trần, giải thích, phân tích tất cả những gì còn giấu kín trong Qur’an.
Sunnah mang đến các giáo lý vốn không được nhắc trong Islam giống như cách thức hành lễ Salah, nhịn chay, xuất Zakat, hành hương Haj, luật dân sự, luật hình sự... Trong một lần ông I’mraan đang nói về Hadith thì có người lên tiếng: xin hãy để Hadith qua một bên mà nói về Qur’an. Lập tức ông I’mraan nổi giận nói: “Nếu không có Sunnah thì làm sao chúng ta biết được Salah Al-Zhurh, Salah Al-A’sr, Salah Al-I’sha là 4 Rak-at, Salah Al-Maghrib là 3 Rak-at và Salah Al-Fajr là 2 Rak-at !!!”
Sunnah dùng để giải thích chi tiết cách hành lễ Salah và các giáo lý khác, giới Sahabah đã không ngừng trao dồi và ôn lại các Hadith chưa biết và đã quên, họ dùng Sunnah mà phân xử mọi việc. Sau khi Rasul e qua đồi không lâu thì có một nhóm người Ả-rập cự tuyệt xuất Zakat bắt buộc ông Abu Bakr t đứng ra kêu gọi mọi người đứng lên chiếu đấu với họ, ông ﷻ’mar t lên tiếng: Làm sao ông có thể chiến đấu với họ trong khi Rasul e nói:
((أُمِرْتُ أَنْ أُقَاتِلَ النَّاسَ حَتَّى يَقُولُوا: لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ فَإِذَا فَعَلُوا ذَلِكَ عَصَمُوا مِنِّي دِمَاءَهُمْ وَأَمْوَالَهُمْ إِلَّا بِحَقِّهَا))
“Ta nhận được lệnh phải chiến đấu với mọi người cho đến họ chấp nhận Allah duy nhất để tôn thờ. Khi họ chấp nhận làm thế thì Ta bị cấm xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của họ ngoại trừ vì quyền lợi (của câu tuyên thệ).”([53])
Ông Abu Bakr t nói: Chẳng phải Zakat thuộc quyền lợi của câu tuyên thệ hay sao? Tôi thề bởi Allah minh chứng cho dù một nhóm người nào đó thuộc dòng họ Nabi e dám không xuất Zakat thì tôi cũng sẽ giết hết bọn họ.
Ông ﷻ’mar t nói: Từ đó nhận biết được Allah đã mở lòng ông Abu Bakrt sẵn sàng chiến đấu và ông đang đứng trên chân lý. Ý kiến của ông được tất cả Sahabah ủng hộ đánh nhóm người phản đạo kia theo mệnh lệnh của Allah và Rasul e.
Trong lần khác có một bà già tìm đến Abu Bakr t hỏi về phần tài sản thừa kế, ông đáp: Tôi không biết có phần nào dành cho bà không nhưng tôi sẽ hỏi ý kiến mọi người. Sau khi thăm dò ý kiến Sahabah ông mới biết là theo Sunnah là chia cho bà một phần sáu khi con gái của bà đã mất, thế là ông chia cho bà một phần sáu.([54])
Có lần ﷻ’thmaan t không rõ việc trong suốt thời gian mang tang chồng người phụ nữ ở nhà riêng của hai vợ chồng hay phải về nhà cha mẹ ruột. Ông được bà Rari-a’h bin Maalik, là em gái của ông Abu Sa-e’d nói rằng: Rasul đã ra lệnh cho bà lúc bà chịu tang là ở tại nhà riêng. Thế là ﷻ’thmaan t làm phân xử theo.([55])
Khi ông Abdullah bin A’bbaas k nghe được tin mọi người bát bỏ việc ông khẳng định rằng Haj Al-Tamadtu’ là tốt nhất do bởi ông Abu Bakr và ﷻ’mar k đã nói làm Haj Al-Ifraad. Ông Abdullah nói trong cơn giận: “Tôi e rằng có một tản đá to từ trên trời sắp rơi lên đầu các người, tôi dẫn chứng lời của Rasul e mà các người dám lấy lời của Abu Bakr và ﷻ’mar ra so sánh ư?”([56])
Có người kể cho Imam Ahmad bin Hambal nghe việc có một nhóm người đã bỏ mặc Hadith mà tìm tòi lấy ý kiến của Sufyaan Al-Thawry về mọi giáo lý hành đạo. Imam nói: Thật là quái lạ cho nhóm người biết rõ về đường truyền Hadith là chính xác từ Rasul e, vậy mà dám bỏ mặc Hadith mà lấy ý kiến của Sufyaan, trong khi Allah phán:
﴿فَلۡيَحۡذَرِ ٱلَّذِينَ يُخَالِفُونَ عَنۡ أَمۡرِهِۦٓ أَن تُصِيبَهُمۡ فِتۡنَةٌ أَوۡ يُصِيبَهُمۡ عَذَابٌ أَلِيمٌ ٦٣﴾ النور: ٦٣
{Bởi thế, hãy cảnh cáo những ai chống đối mệnh lệnh của Ngươi (Muhammad) nên biết rằng: nếu làm thế, chúng sẽ gặp phải hoạn nạn hay gặp phải một hình phạt đau đớn.} Al-Noor: 63 (chương 24).
Khi ông Abu Ayyoob t nghe được tin một người đàn ông kêu gọi mọi người làm theo Qur’an và bỏ đi Sunnah thì ông nói: “Mọi người hãy kêu gọi ông ta quay lại đi bởi ông đang rơi vào lầm lạc.”
Nhóm hiền nhân xưa đã thấu đáo lý do đẩy con người rơi vào lầm lạc là do họ dám bỏ đi Sunnah điển hình như Al-Khawarij nên họ đã cố gắng cấm cản hiện trường cũ lại tái diễn.
Ngày nay việc bỏ mặc Sunnah còn nghiêm trọng hơn, nguy hiểm và hiển nhiên hơn, họ nói: “Sunnah chúng ta không cần” rồi họ hiển nhiên phê phán, bình luận, chê bai các học giả chuyên Hadith, người viết sách và cả các quyển sách. Từ đó họ có đường lối hành đạo riêng biệt và công khai với thế giới Islam điển hình như ở Ai Cập, họ tự cho mình là: “Nhóm người Qur’an”. Những người này không biết tất cả Sunnah đã được sàn lọc rất kỹ càng, được đào tạo không sai sót do chính Sahabah truyền thụ và như thế truyền đạt đến các thế hệ sau họ.
Đến thế kỷ thứ II, thứ III và trội nhất là trong thế kỷ thứ III này các học giả chuyên môn Hadith đã dày công nghiên cứu sàn lọc tuyển chọn và phân loại từng Hadith một, từng đường truyền một ra mà viết thành sách, họ đem thành quả đó ra công bố với thế giới Islam. Dưới sự bảo hộ và trợ giúp của Đấng Sáng Suốt và Tinh Thông tất cả đã xóa được nổi lo lắng canh cánh về Hadith nằm trong lòng họ bấy lâu. Những Hadith yếu, Hadith bịa đặt, các người không đáng tin cậy, hoàn toàn không tin cậy khi truyền lại Hadith đều được viết thành sách để công bố cho tín đồ Islam rõ từng người một, từng Hadith một. Từ đó ai dám cẩu thả trong việc nghiên cứu và ghi chép Hadith đều bị giới ﷻ’lama loại bỏ và công bố ra thiên hạ.
Trong một lần ông Abdullah bin ﷻ’mar k đã nhắc các con về Hadith:
((لاَ تَمْنَعُوا إِمَاءَ اللهِ مَسَاجِدَ اللهِ))
“Các ngươi không được cấm tín đồ nữ của Allah tìm đến các Masjid của Ngài.” Một trong số con của ông nói: Thề bởi Allah con sẽ cấm các bà – với ngụ ý không cho các bà lơ là với việc nhà và chồng con – ông Abdullah đã giận dữ mà mắng chửi các con tới tập và nói: Ta nói với các con rằng Rasul e nói như vậy mà các con lại dám nói thề bởi Allah là con sẽ cấm các bà.([57])
Ông Abdullah bin Mughaffal Al-Muzni t - một Sahahbah - đã nhìn thấy một người trong họ lượm viên sỏi mà ném thì ông bảo: Rasul e đã cấm ném những viên sỏi nhỏ mà nói:
((إِنَّهُ لاَ يَصِيدُ صَيْدًا وَلاَ يَنْكَأُ عَدُوًّا وَإِنَّمَا يَفْقَأُ الْعَيْنَ وَيَكْسِرُ السِّنَّ))
“Quả thật điều đó không săn được thú cũng không giết được kẻ thù, nó chỉ làm cho đuôi mắt và gãy răng mà thôi.” Sau thời gian ông lại thấy người đó lại ném sỏi nữa thì nổi giận mà nói: Tôi đã nói là Rasul e cấm không cho ném sỏi vậy mà anh còn ném nữa, tôi sẽ không nói chuyện với anh nữa.([58])
Thấy đó giới Sahabah đã rất tôn trọng Sunnah, họ luôn khuyến cáo ngoãnh mặt với ai đám lơ là, kháng lại Sunnah dù người đó là ai có kiến thức hai địa vị ra sao. Tương tự như họ giới ﷻ’lama Sunnah sau Sahabah cũng rất tôn trọng Sunnah điển hình như:
Ø Imam Abu Hanifah ﷺ nói: “Khi có Hadith của Rasul và lời nhận định của Sahabah thì phải đặt lên đầu và mắt, nếu nhận được lời nói của thế hệ Tabi-e’n (thế hệ sau Sahabah) thì họ là đàn ông và chúng ta cũng là đàn ông.”
Ø Imam Maalik ﷺ nói: “Bất cứ ai trong chúng ta thì lời nói của y đều cần phải sàn lọc lại nên lấy hay bỏ. Riêng lời nói của chủ nhân ngôi mộ này (là lấy hết).” Tức một của Rasul e.
Ø Imam còn nói: “Sẽ không chấn chỉnh được thế hệ sau tốt hơn ngoại trừ phải làm như thế hệ trước đã làm. Đó là noi theo Sunnah.”
Ø Imam Al-Shafi-y’ ﷺ nói: “Một khi tôi ghi lại một Hadith Saheeh (chính xác) từ Rasul e rồi tôi lại làm khác nó, hãy biết rằng lúc đó tôi đã bị thần kinh.”
Ø Câu nói khác của Imam: “Một khi lời nói của tôi khác với Hadith của Rasul e thì hãy ném lời nói của tôi vào tường.”
Ø Imam Ahmad bin Hambal ﷺ nói: “Mọi người đừng bắt chước theo tôi, cũng dừng theo Maalik hay Al-Shafi-y’ mà mọi người hãy lấy từ nguồn chúng tôi đã lấy.”
Những câu nói tương tự như thế này có rất nhiều như Abu Al-A’bbaas Ibnu Taimiyah, Ibnu Al-Qaiyim, Ibnu Katheer y và những ﷻ’lama khác, lời nói của họ khẳng định thêm rằng ai dám chông đối Sunnah là kẻ lầm lạc lối đi, ai nêu cao lời nói hay ý kiến của một ai đó hơn Sunnah là đã sai lầm to lớn, cho dù người có kiến thức hay địa vị hay danh tiếng ra sao thì lời nói của họ cần phải suy xét lại, bởi Allah đã hạ lệnh rằng:
﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ أَطِيعُواْ ٱللَّهَ وَأَطِيعُواْ ٱلرَّسُولَ وَأُوْلِي ٱلۡأَمۡرِ مِنكُمۡۖ فَإِن تَنَٰزَعۡتُمۡ فِي شَيۡءٖ فَرُدُّوهُ إِلَى ٱللَّهِ وَٱلرَّسُولِ إِن كُنتُمۡ تُؤۡمِنُونَ بِٱللَّهِ وَٱلۡيَوۡمِ ٱلۡأٓخِرِۚ ذَٰلِكَ خَيۡرٞ وَأَحۡسَنُ تَأۡوِيلًا ٥٩﴾ النساء: ٥٩
{Hỡi những người có đức tin! Hãy tuân lệnh Allah, hãy tuân lệnh Rasul (Muhammad) và cấp lãnh đạo (người Muslim) trong các người. Một khi các người có sự bất đồng ý kiến về bất cứ việc gì thì hãy cùng nhau quay trở lại với Allah và Rasul. Nếu các người là những người luôn tin tưởng vào Allah và vào ngày phán xử cuối cùng. Đó là lối giải cao minh và là sự phân tích chính xác.} Al-Nisa: 59 (chương 4), Allah phán ở khác:
﴿وَمَا ٱخۡتَلَفۡتُمۡ فِيهِ مِن شَيۡءٖ فَحُكۡمُهُۥٓ إِلَى ٱللَّهِۚ﴾ الشورى: ١٠
{Và cho dù các người có tranh cải về bất cứ điều gì thì sự phán quyết là do Allah định đoạt.} Al-Shura: 10 (chương 42).
Học giả Hadith Al-Suyuti đã viết trong luận án “Chìa khóa thiên đàng qua các bằng chứng từ Sunnah” ở ngay phần khai đề Học giả khẳng định: “Ai dám bác bỏ mà khẳng định không cần đến Sunnah, y là Kafir theo ý kiến được tất cả ﷻ’lama thống nhất.”
Tóm lại, Sunnah tức Hadith (là tất cả lời nói, hành động, thái độ, cử chỉ của Rasul và sự hài lòng của Người cho Sahabah (bằng hữu) làm nó) là nguồn gốc giáo lý thứ hai của bộ giáo lý Islam, một nguồn gốc riêng biệt với Qur’an bắt buộc tín đồ Muslim phải làm theo tất cả Hadith được xác định Saheeh (chính xác) từ Rasul e.
Cầu xin Allah ban thành công, minh mẫn và sáng suốt cho cộng đồng Muslim, xin phù hộ họ luôn ngoan và sùng đạo, làm theo di huấn của Rasul e và phủi bỏ tất cả mọi điều cải biên trong tôn giáo. Quả thật, Ngài là Đấng Bảo Hộ và có khả năng trên tất cả mọi việc.
Alhamdulillah, xin muôn vàn tạ ơn Allah Đấng Chủ Tể của toàn vủ trụ và muôn loài, cầu xin bình an và phúc lành cho vị Nabi Muhammad, cho gia quyến cùng tất cả bằng hữu của Người.
dkf
Giáo Lý Cầu Xin & Khấn Vái Các Thủ Lãnh Đã Khuất
Hỏi: Từ một đạo hữu gởi từ Yamen.
Trên quê hương chúng tôi có di chiếu trái ngược với giáo lý Islam do trong nó có phần là Bid-a’h và có phần là Shirk, họ cho rằng được truyền lại từ thủ lãnh A’ly bin Abu Taalip và những người khác. Mọi người thường đọc di chiếu này trong những lần hội hợp, trong các Masjid sau mỗi lần Salah Al-Maghrib họ cho rằng đây là cách hiến dâng Allah, trong di chiếu có các câu:
ü Vì những người đàn ông của Allah, xin hãy cứu phù hộ chúng tôi.
ü Hỡi các lãnh đạo đã khuất, hỡi chủ nhân có quyền năng, xin hãy biện hộ cho tôi trước Allah, tôi là nô lệ của các ngài đang đứng khúm núm sợ hãi do bản thân chúng tôi cẩu thả. Xin hãy phù hộ chúng tôi hỡi Rasul của Allah, ngoài Người chúng tôi không còn ai cầu xin, bởi Người là thân tín tốt nhất của Allah. Này hỡi Hamzah vị lãnh đạo các chiến tử, các ngài có khả năng trợ giúp chúng tôi.
ü Cầu xin Allah ban bình an cho những ai mà Ngài đã chọn làm đại diện tìm hiểu bí mật, phân chia lòng nhân từ của Ngài.
Tôi rất mong được Sheikh giải thích rõ đâu là Bid-a’h, đâu là Shirk và có được phép hành lễ Salah sau lưng những Imam đã cầu xin như thế này không ?
Đáp:
اَلْحَمْدُ لِلهِ وَالصَّلَاةُ وَالسَّلَامُ عَلَى مَنْ لَا نَبِيَّ بَعْدَهُ وَعَلَى آلِهِ وَصَحْبِهِ وَمَنِ اهْتَدَى بِهُدَاهُ إِلَى يَوْمِ الدِّيْنِ، وَبَعْدُ:
Mọi lời ca ngợi và tán dương điều kính dâng Allah, cầu Ngài ban bình an và phúc lành cho vị Nabi cuối cùng, cho dòng dõi và bằng hữu của Người và cho những ai đi theo sự hướng dẫn của họ cho đến ngày tận thế Amma Ba'd:
Quí đạo hữu Muslim thân mến, tín đồ Muslim cần phải thông thạo rằng mục đích chủ yếu mà Allah tạo hóa ra vạn vật là để tôn thờ Ngài duy nhất, vì sự tôn thờ đó mà Allah lần lượt cử phái đến các vị Rasul, Ngài phán:
﴿وَمَا خَلَقۡتُ ٱلۡجِنَّ وَٱلۡإِنسَ إِلَّا لِيَعۡبُدُونِ ٥٦﴾ الذاريات: ٥٦
{Và TA (Allah) không tạo hóa ra loài Jin và loài người ngoại trừ để tôn thờ TA.} Al-Zariyat: 56 (chương 51).
Ý nghĩa của tôn thờ là tuân lệnh Allah, tuân lệnh Rasul bằng nhiệm vụ và trọng trách phải làm hoặc từ bỏ mọi điều được Allah phán bảo và Rasul e hạ lệnh. Hết lòng tin tưởng Allah và Rasul e của Ngài, thành tâm vì Allah duy nhất trong việc hành đạo, như Allah phán:
﴿۞وَقَضَىٰ رَبُّكَ أَلَّا تَعۡبُدُوٓاْ إِلَّآ إِيَّاهُ﴾ الإسراء: ٢٣
{Và Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) đã quyết định rằng các người chỉ được phép thờ phụng Ngài duy nhất.} Al-Isra: 23 (chương 17), Allah phán ở chương khai đề:
﴿ٱلۡحَمۡدُ لِلَّهِ رَبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ٢ ٱلرَّحۡمَٰنِ ٱلرَّحِيمِ ٣ مَٰلِكِ يَوۡمِ ٱلدِّينِ ٤ إِيَّاكَ نَعۡبُدُ وَإِيَّاكَ نَسۡتَعِينُ ٥﴾ الفاتحة: 2 – 5
{Mọi lời ca ngợi, tán dương đều kính dâng Allah Đấng chúa tể của toàn vũ trụ * Đấng rất mực độ lượng, Đấng rất mực khoan dung * (Allah là) Đức Vua của ngày phán xử * Duy chỉ Ngài chúng tôi tôn thờ và cũng duy chỉ Ngài chúng tôi cầu xin sự giúp đỡ.} Al-Fatihah: 2 – 5.
Trong những câu Kinh khác Allah tuyên bố duy chỉ Ngài mới xứng đáng được vạn vật thờ phụng:
﴿فَٱعۡبُدِ ٱللَّهَ مُخۡلِصٗا لَّهُ ٱلدِّينَ ٢ أَلَا لِلَّهِ ٱلدِّينُ ٱلۡخَالِصُۚ﴾ (سورة الزمر: 2 - 3)
{Vì thế hãy thành tâm mà tôn thờ Allah * Duy chỉ Allah mới xứng đáng được thành tâm thờ phụng.} Al-Zumar: 2 - 3 (chương 39), Allah phán ở chương khác:
﴿فَٱدۡعُواْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ وَلَوۡ كَرِهَ ٱلۡكَٰفِرُونَ ١٤﴾ غافر: 14
{Các ngươi hãy chuyên tâm tôn thờ Allah duy nhất cho dù có bị bọn Kafir ghét bỏ.} Ghaafir: 14 (chương 40) và Allah phán:
﴿وَأَنَّ ٱلۡمَسَٰجِدَ لِلَّهِ فَلَا تَدۡعُواْ مَعَ ٱللَّهِ أَحَدٗا ١٨ ﴾ الجن: ١٨
{Và quả thật, tất cả Masjid là của Allah. Bởi vậy, chớ cầu nguyện một ai cùng với Allah (trong đó).} Al-Jin: 18 (chương 72).
Các câu Kinh khẳng định rằng con người phải tôn thời Allah duy nhất và như đã rõ cầu xin thuộc thể loại tôn thờ, nên không được cầu xin van vái bất cứ ai mà chỉ hướng về Thượng Đế Allah duy nhất.
Trong giáo lý Islam qui định rõ con người có thể cầu cứu con người sống, hiện diện nghe được lời và trong tầm khả năng, thí dụ như nhờ khiên tiếp vật nặng, đẩy tiếp chiếc xe... hoặc người đó còn sống nhưng vắng mặt thì nhờ bằng cách điện thoại, viết thư, nhắn tin... nhờ sửa dùm nhà, sử xe hoặc một việc nào đó. Bằng chứng cho vấn đề Allah kể về câu chuyện của Nabi Musa u:
﴿فَٱسۡتَغَٰثَهُ ٱلَّذِي مِن شِيعَتِهِۦ عَلَى ٱلَّذِي مِنۡ عَدُوِّهِۦ﴾ سورة القصص: 15
{Và người thuộc phe của Y gọi Y tiếp tay để đánh lại kẻ địch.} Al-Qasas: 15 (chương 28), cho nên con người có thể cầu cứu người khác tiếp tay trong mọi việc của cuộc sống.
Riêng việc cầu cứu người chết, ma quỉ, Thiên Thần, cây cối, đá tượng đều là đại tội Shirk. Việc cầu cứu này không khác việc thờ phượng của nhóm người tiền Islam xưa kia đã cầu xin các thần linh của họ. Bởi tất cả họ hoàn toàn không có khả năng giúp con người điều gì dù những chuyện con người sống có khả năng giúp đỡ hoặc những chuyện ngoài tầm của con người như ban cho khỏi bệnh, được hạnh phúc, được bình an, được vào thiên đàng, an toàn khỏi hỏa ngục... những việc này chỉ có Allah mới có khả năng. Trong khi đó, tất cả các câu Kinh và Hadith đều khả định rằng con người chỉ được phép cầu xin và van vái riêng Allah, phải thành tâm trong hành đạo, trong thờ phượng tuyệt đối không được cầu xin Allah và cầu xin một thần linh hay con người nào khác cùng với Allah, Ngài phán:
﴿وَٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ وَلَا تُشۡرِكُواْ بِهِۦ شَيۡٔٗاۖ﴾ (سورة النساء: 36)
{Các ngươi hãy thờ phượng Allah và tuyệt đối không được Shirk với Ngài (tổ hợp với Ngài trong thờ phượng) bất cứ cái gì.} Al-Nisa: 36 (chương 4), Allah phán ở chương khác:
﴿وَمَآ أُمِرُوٓاْ إِلَّا لِيَعۡبُدُواْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ﴾ [سورة البينة: 5]
{Và họ được lệnh chỉ phải thờ phụng riêng Allah, triệt để thần phục Ngài một cách chính trực.} Al-Baiyinah: 4 - 5 (chương 98).
Nabi e nói:
((حَقُّ اللهِ عَلَى الْعِبَادِ أَنْ يَعْبُدُوهُ وَلاَ يُشْرِكُوا بِهِ شَيْئًا))
“Nhiệm vụ của đám bầy tôi (chúng ta) đối với Allah là chỉ tôn thờ Ngài duy nhất không được tổ hợp Ngài với bất cứ vật gì (hay thần linh nào).”([59])
Từ ông Ibnu Mas-u’d t dẫn lời Rasul e:
((مَنْ مَاتَ وَهْوَ يَدْعُو مِنْ دُونِ اللهِ نِدًّا دَخَلَ النَّارَ))
“Ai chết vẫn còn mang tội đã từng cầu xin cùng Allah một thần linh khác là đã xa vào hỏa ngục.”([60])
Được ghi trong hai bộ Saheeh từ ông Ibnu A’bbaas i lúc Rasul e cử ông Mu-a’z đến Yamen, Người bảo:
((إِنَّكَ تَأْتِي أَهْلَ كِتَابِ فَلْيَكُنْ أَوَّلَ مَا تَدْعُوهُمْ إِلَىهِ شَهَادَةَ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ))
“Rồi anh sẽ đến gặp nhóm người Kinh Sách (Do Thái và Thiên Chúa), hãy nhớ việc đầu tiên anh kêu gọi họ là chấp nhận tuyên thệ La i la ha il lol loh.”([61]) Có đường truyền khác ghi:
((فَادْعُوهُمْ إِلَى أَنْ يَشْهَدُوا أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَأَنِّي رَسُولُ اللهِ))
“Anh hãy kêu gọi họ là chấp nhận tuyên thệ La i la ha il lol loh và Ta là Rasul của Allah.”([62]) Có đường truyền khác ghi:
((فَادْعُوهُمْ إِلَى أَنْ يُوَحِّدُوا اللهَ))
“Anh hãy kêu gọi họ độc tôn Allah trong thờ phượng.”([63])
Trong Muslim từ ông Taariq bin Ash-yam Al-Ashja-y’ t dẫn lời Rasul e rằng:
((مَنْ وَحَّدَ اللهَ وَكَفَرَ بِمَا يُعْبَدُ مِنْ دُونِهِ حَرُمَ مَالُهُ وَدَمُهُ وَحِسَابُهُ عَلَى اللهِ ﷻ))
“Ai độc tôn Allah trong thờ phượng và phủ nhận hết tất cả mọi thần linh được tôn thờ ngoài Ngài thì tài sản và sinh mạng của y bất khả xâm phạm và Allah sẽ tính sổ riêng với y.”([64])
Đúng vậy, Tawhid là nguồn gốc cơ bản của tôn giáo Islam, là nền tản của cộng đồng, là đầu não của mọi vấn đề, là nhiệm vụ quan trọng nhất của người Muslim, nó là mục đích mà loài người và ma quỉ được tạo hóa và tất cả Rasul được lần lượt cử phái xuống trần gian như đã được dẫn chứng ở phần trên, điển hình như các câu Kinh:
﴿وَمَا خَلَقۡتُ ٱلۡجِنَّ وَٱلۡإِنسَ إِلَّا لِيَعۡبُدُونِ ٥٦﴾ الذاريات: ٥٦
{Và TA (Allah) không tạo hóa ra loài Jin và loài người ngoại trừ để tôn thờ TA.} Al-Zariyat: 56 (chương 51), ở chương khác Allah phán:
﴿وَلَقَدۡ بَعَثۡنَا فِي كُلِّ أُمَّةٖ رَّسُولًا أَنِ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ وَٱجۡتَنِبُواْ ٱلطَّٰغُوتَۖ﴾ النحل: ٣٦
{Và chắc chắn TA đã cử phái cho mỗi cộng đồng một vị Thiên Sứ (với mệnh lệnh): “Hãy thờ phụng Allah (duy nhất) và tránh xa Toghut (Tà Thần).”} Al-Nahl: 36 (chương 16), ở chương khác Allah phán:
﴿وَمَا أَرْسَلْنَا مِنْ قَبْلِكَ مِنْ رَسُولٍ إِلا نُوحِي إِلَيْهِ أَنَّهُ لا إِلَهَ إِلا أَنَا فَاعْبُدُونِ ﭠ ﴾ الأنبياء: ٢٥
{Và không một Rasul (Thiên Sứ, Nabi hay Sứ Giả) nào được cử phái trước Ngươi (Muhammad) mà TA lại không bảo: “Quả thật, không có Thượng Đế nào khác xứng đáng được thờ phụng ngoài TA, do đó hãy thờ phụng riêng TA.”} Al-Ambiya: 25 (chương 21), Allah kể về lời mời gọi của các vị Rasul Nuh, Hud, Saaleh và Shu-a’ib đã tha thiết kêu gọi cộng đồng mình rằng:
﴿يَٰقَوۡمِ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ مَا لَكُم مِّنۡ إِلَٰهٍ غَيۡرُهُۥٓ﴾ [سورة الأعراف: 59]
{Này hỡi người dân! Các người hãy thờ phượng Allah, các người không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài cả.} Al-A'raaf: 59 (chương 7). Và đây cũng là lời mời gọi chung của tất cả Rasul và Nabi.
Nhiệm vụ của giới Rasul rất rõ ràng và minh bạch, thậm chí kẻ thù đồng hiểu được nhiệm vụ của Rasul là kêu gọi mọi thiên hạ tôn thờ Allah duy nhất và từ bỏ hết mọi thần linh đang tôn thờ ngoài Ngài, điển hình như thần dân của Rasul Hud u đã hỏi:
﴿قَالُوٓاْ أَجِئۡتَنَا لِنَعۡبُدَ ٱللَّهَ وَحۡدَهُۥ وَنَذَرَ مَا كَانَ يَعۡبُدُ ءَابَآؤُنَا﴾ [سورة الأعراف: 70]
{Mọi người hỏi: “Chẳng lẽ Ông đến là để bảo chúng tôi chỉ tôn thờ Allah duy nhất và từ bỏ hết các thần linh mà tổ tiên chúng tôi đã tôn thờ trước kia.”} Al-A'raaf: 70 (chương 7). Allah đã kể lại lời đối đáp của Quraish khi Rasul Muhammad đến gọi họ chỉ tôn thờ Allah duy nhất và từ bỏ hết mọi thần linh, Thiên Thần, bụt tượng, cây tôi, người chết đã từng thờ trước kia:
﴿أَجَعَلَ ٱلۡأٓلِهَةَ إِلَٰهٗا وَٰحِدًاۖ إِنَّ هَٰذَا لَشَيۡءٌ عُجَابٞ ٥﴾ ص: ٥
{Phải chăng Y (Muhammad) muốn gạt bỏ hết mọi thần linh mà tôn thờ một Thượng Ðế duy nhất? Ðây thật là một điều hết sức quái dị.} Saad 5 (chương 38), Allah kể về lời của họ ở một chương khác:
﴿ إِنَّهُمۡ كَانُوٓاْ إِذَا قِيلَ لَهُمۡ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا ٱللَّهُ يَسۡتَكۡبِرُونَ ٣٥ وَيَقُولُونَ أَئِنَّا لَتَارِكُوٓاْ ءَالِهَتِنَا لِشَاعِرٖ مَّجۡنُونِۢ ٣٦ ﴾ الصافات: ٣٥ – ٣٦
{Quả thật chúng là những kẻ, khi được nhắc: Không có Thượng Ðế nào khác duy chỉ Allah (là Thượng Ðế) họ lại tỏ ra ngạo mạn. * Và chúng bảo: Sao! chúng tôi phải bỏ các thần linh của chúng tôi chỉ vì một tên thi sĩ mất trí (Muhammad) hay sao ?} Al-Saffaat: 35 – 36 (chương 37).
Tất cả các bằng chứng từ Qur’an, từ Sunnah nêu trên mong rằng mang đến cho quí đạo hữu hiểu rõ về Tawhid. Và thêm lần nữa tôi muốn nhấn mạnh rằng tất cả câu hỏi của bạn là đại tội Shirk bởi dám hành đạo hướng về thần linh ngoài Allah, cầu xin những điều chỉ có Allah mới có khả năng. Tội lỗi này còn nguy hại hơn cả tội lỗi của nhóm đa thần xưa kia, bởi nhóm đa thần xưa kia chỉ tôn thờ thần linh khác trong lúc bình an còn khi gặp phải hoạn nạn thì họ hết lòng khẩn cầu van vái Allah, giống như được Allah phán về hoàn cảnh của họ trong Qur’an:
﴿فَإِذَا رَكِبُواْ فِي ٱلۡفُلۡكِ دَعَوُاْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ فَلَمَّا نَجَّىٰهُمۡ إِلَى ٱلۡبَرِّ إِذَا هُمۡ يُشۡرِكُونَ ٦٥ ﴾ (العنكبوت :65)
{Bởi thể, khi chúng lên tàu (ra khơi), chúng cầu nguyện Allah, dâng trọn cả đức tin nơi Ngài. Nhưng khi Ngài cứu chúng lên bờ an toàn thì chúng lại thờ những thần linh khác cùng với Ngài.} Al-A’nkaboot: 65 (chương 29), ở chương khác Allah hỏi nhóm đa thần:
﴿ وَإِذَا مَسَّكُمُ ٱلضُّرُّ فِي ٱلۡبَحۡرِ ضَلَّ مَن تَدۡعُونَ إِلَّآ إِيَّاهُۖ فَلَمَّا نَجَّىٰكُمۡ إِلَى ٱلۡبَرِّ أَعۡرَضۡتُمۡۚ وَكَانَ ٱلۡإِنسَٰنُ كَفُورًا ٦٧﴾ (سورة الإسراء: 67)
{Và một khi nạn kiếp túm lấy các ngươi ở ngoài đại dương thì các ngươi lại hết lòng khẩn cần van vái Allah duy nhất. Nhưng khi Ngài cứu các người bình an lên đất liền thì các người lại ngoảnh mặt hờ hững. Đúng là con người vốn là kẻ vong ân.} Al-Isra: 67 (Chương 17).
Nếu nói: Thế hệ ngày nay luôn thấu hiểu rằng những thần linh họ đang cầu nguyện không hề làm họ khỏi bệnh hay trợ giúp họ hoặc giúp họ chống đối kẻ thù, chẳng qua họ chỉ muốn nhờ các thần linh biện hộ cho họ trước Allah.
Đáp: Đây cũng chính là mục đích của nhóm Đa thần xưa kia, họ đinh ninh rằng thần linh họ thờ phượng không có quyền tạo hóa hoặc ban bố hoặc mang lại lợi ích hoặc gây hại ai. Mặc dù vậy họ vẫn cầu xin bởi họ muốn các thần linh đó làm trung gian giữa họ với Allah để họ được gần Ngài hơn như Allah đã kể trong chương Yunus:
﴿وَيَعۡبُدُونَ مِن دُونِ ٱللَّهِ مَا لَا يَضُرُّهُمۡ وَلَا يَنفَعُهُمۡ وَيَقُولُونَ هَٰٓؤُلَآءِ شُفَعَٰٓؤُنَا عِندَ ٱللَّهِۚ﴾
{Và bọn họ tôn thờ những thần linh khác thay vì Allah, chúng chẳng mang lại lợi ích hoặc gây tổn hại họ được tí nào và họ bảo: “Những vị này là những người can thiệp giùm cho chúng tôi với Allah.”} Allah liền đối đáp lại chúng:
﴿قُلۡ أَتُنَبُِّٔونَ ٱللَّهَ بِمَا لَا يَعۡلَمُ فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَلَا فِي ٱلۡأَرۡضِۚ سُبۡحَٰنَهُۥ وَتَعَٰلَىٰ عَمَّا يُشۡرِكُونَ ١٨ ﴾ يونس: ١٨
{Hãy bảo họ: “Phải chăng các người muốn báo cho Allah biết điều mà (các người tưởng rằng) Ngài không biết chuyện gì xảy ra trong các tầng trời và trái đất hay sao ? Vinh Quang, Trong Sạch thay Ngài, Đấng Tối Cao vượt hẳn mọi điều các người đã tổ hợp.”} Yunus: 18 (Chương 10). Qua câu Kinh Allah khẳng định dù ở trên trời hay ở dưới đất vẫn không có một ai có quyền biện hộ trước Ngài giống như nhóm Đa thần suy nghĩ, bởi Ngài là Đấng tinh thông tất cả.
Allah phán ở chương Al-Zumar:
﴿تَنزِيلُ ٱلۡكِتَٰبِ مِنَ ٱللَّهِ ٱلۡعَزِيزِ ٱلۡحَكِيمِ ١ إِنَّآ أَنزَلۡنَآ إِلَيۡكَ ٱلۡكِتَٰبَ بِٱلۡحَقِّ فَٱعۡبُدِ ٱللَّهَ مُخۡلِصٗا لَّهُ ٱلدِّينَ ٢ أَلَا لِلَّهِ ٱلدِّينُ ٱلۡخَالِصُۚ﴾ (سورة الزمر: 1 - 3)
{Thiên Kinh Qur’an là do Allah Đấng Hùng Mạnh, Đấng Sáng Suốt thiên khải * Chính TA đã thiên khải cho Ngươi (Muhammad) Thiên Kinh chứa đựng chân lý, vì thế hãy thành tâm mà tôn thờ Allah * Duy chỉ Allah mới xứng đáng được thành tâm thờ phụng.} Al-Zumar: 1 - 3 (chương 39). Với câu Kinh Allah ra lệnh cho Nabi Muhammad e và toàn thể tín đồ của Người chỉ được phép thờ phụng Ngài duy nhất.
Chữ thờ phượng trong câu Kinh mang ý nghĩa tuân lệnh Allah và Rasul e của Ngài như đã giải thích và những điều sau đây đều được xem là thờ phượng như cầu xin, khấn vái, sợ hãi, hi vọng, giết tế, nguyện thề, nhịn chay, Salah và cộng thêm tất cả mọi điều được Allah và Rasul e ra lệnh.
Allah kể tiếp lời biện hộ của Đa thần:
﴿وَٱلَّذِينَ ٱتَّخَذُواْ مِن دُونِهِۦٓ أَوۡلِيَآءَ مَا نَعۡبُدُهُمۡ إِلَّا لِيُقَرِّبُونَآ إِلَى ٱللَّهِ زُلۡفَىٰٓ﴾ (سورة الزمر: 3)
{Riêng những kẻ đã nhận lấy những thần linh ngoài Ngài cho rằng chúng tôi không thờ phượng họ mà chỉ nhờ họ đưa chúng tôi đến gần với Allah hơn.} Al-Zumar: 3 (chương 39). Tức chúng tôi không tôn thờ họ mà chỉ nhờ cậy họ nói tốt cho chúng tôi trước Allah, nhưng lời lẽ bị Allah bát bỏ:
﴿إِنَّ ٱللَّهَ يَحۡكُمُ بَيۡنَهُمۡ فِي مَا هُمۡ فِيهِ يَخۡتَلِفُونَۗ إِنَّ ٱللَّهَ لَا يَهۡدِي مَنۡ هُوَكَٰذِبٞ كَفَّارٞ ٣﴾ (سورة الزمر: 3)
{Quả thật, Allah sẽ xét xử giữa bọn chúng về điều mà chúng tranh cãi. Quả thật, Allah sẽ không hướng dẫn ai nói dối và không có đức tin.} Al-Zumar: 3 (chương 39).
Thế hệ Đa thần xưa kia đã so sánh Allah với các vị vua, rằng vua được các trư thần phò trợ trong việc cải quản và trị vì. Nên ai muốn trình đến vua phải thông qua các trư thần trước, vì lẽ đó mà họ cho rằng các Nabi, các Waly, các thần linh, cây cối, bụt tượng gần với Allah hơn nên tôn thờ họ với mong muốn được họ nói tốt trước Allah, họ tin rằng những thần linh họ thờ phượng có thẩm quyền giúp họ mọi việc mà không cần đến Allah cho phép hay không giống như các trư hầu của vua lạm dụng quyền hành mà lộng hành. Nhưng ý tưởng này bị Allah bác bỏ, bởi Allah là Đấng độc tôn không có tương đồng lại càng không được so sánh Ngài với bất cứ ai khác trong thiên hạ, không một ai có quyền biện hộ trước Ngài ngoại trừ được Ngài cho phép và Ngài chỉ cho phép những ai tôn thờ Ngài duy nhất, Ngài là Đấng Quang Vinh có quyền lực trên tất cả, am tường tất cả, Đấng Độ Lượng nhất trong vũ trụ, Ngài chẳng sợ hãi hay ngần ngại trước ai, bởi Ngài là Đấng toàn quyền thống trị vủ trụ, mọi việc đều theo ý Ngài. Còn các vị vua thì ngược lại họ không có khả năng hiểu hết hay giải quyết mọi việc mà cần phải nhờ trư thần, quân lính trợ giúp nhưng đôi khi họ cậy quyền thế rồi trở thành bạo chúa. Riêng Allah là Đấng giàu có không cần bất cứ vật thể nào trợ giúp, Ngài nhân từ với đám bầy tôi Ngài hơn cả mẹ thương con, Ngài sáng suốt công bằng luôn đặt để mọi việc đúng chuẩn mực. Thế nên, tuyệt đối không được so sánh Allah với bất cứ ai, dù trên phương diện hay mặt nào.
Trong Qur’an phán rõ Đa thần xưa kia đã một lòng hài lòng công nhận Allah là Đấng Tạo Hóa, Đấng Ban Phát, Đấng Thống Trị, Đấng đáp lại mọi lời khẩn cầu van vái, Đấng ban sống chết . . . nhóm Đa thần chỉ tranh cải với Rasul e về mặt tôn thờ Allah duy nhất mà thôi, Allah phán về lời tranh cải đó:
﴿ وَلَئِن سَأَلۡتَهُم مَّنۡ خَلَقَهُمۡ لَيَقُولُنَّ ٱللَّهُۖ ﴾ الزخرف: ٨٧
{Và nếu Ngươi (Muhammad) có hỏi chúng: “Ai đã tạo hóa ra họ ?” thì chắc chắn họ sẽ đáp: “Allah”.} Al-Zukhruf: 87 (chương 43), Allah phán ở chương khác:
﴿قُلْ مَنْ يَرْزُقُكُمْ مِنَ السَّمَاءِ وَالْأَرْضِ أَمْ مَنْ يَمْلِكُ السَّمْعَ وَالْأَبْصَارَ وَمَنْ يُخْرِجُ الْحَيَّ مِنَ الْمَيِّتِ وَيُخْرِجُ الْمَيِّتَ مِنَ الْحَيِّ وَمَنْ يُدَبِّرُ الْأَمْرَ فَسَيَقُولُونَ اللَّهُ فَقُلْ أَفَلَا تَتَّقُونَ ٣١﴾ (يونس : 31)
{Hãy hỏi họ: “Ai cấp dưỡng cho các người từ trên trời và dưới dất? Ai nắm quyền kiểm soát thính giác và thị giác của các người? Và ai đưa cái sống ra từ cái chết và đưa cái chết ra khỏi cái sống? Và quản lý điều hành mọi hoạt động của vũ trụ và vạn vật ?” Họ sẽ trả lời: “Allah”. Vậy hãy bảo họ: “Thế các người không sợ Ngài hay sao ?”} Yunus: 31 (Chương 10). Như đã nói đề cập giới Rasul cùng với mọi người thường đấu tranh nhau về việc tôn thờ Allah duy nhất, Allah phán:
﴿وَلَقَدۡ بَعَثۡنَا فِي كُلِّ أُمَّةٖ رَّسُولًا أَنِ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ وَٱجۡتَنِبُواْ ٱلطَّٰغُوتَۖ﴾ النحل: ٣٦
{Và chắc chắn TA đã cử phái cho mỗi cộng đồng một vị Thiên Sứ (với mệnh lệnh): “Hãy thờ phụng Allah (duy nhất) và tránh xa Toghut (Tà Thần).”} Al-Nahl: 36 (chương 16).
Nói về biện hộ, trong Qur’an Allah nhắc rất nhiều như trong chương Al-Baqarah:
﴿مَن ذَا ٱلَّذِي يَشۡفَعُ عِندَهُۥٓ إِلَّا بِإِذۡنِهِۦۚ﴾ البقرة: 255
{Ai là người có thể can thiệp được với Ngài nếu không có sự cho phép của Ngài ?} Al-Baqarah: 255 (chương 2), còn ở chương Al-Najm:
﴿وَكَم مِّن مَّلَكٖ فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ لَا تُغۡنِي شَفَٰعَتُهُمۡ شَيًۡٔا إِلَّا مِنۢ بَعۡدِ أَن يَأۡذَنَ ٱللَّهُ لِمَن يَشَآءُ وَيَرۡضَىٰٓ ٢٦ ﴾ (النجم : 26)
{Và có bao nhiêu Thiên Thần trong các tầng trời mà sự can thiệp chẳng có kết quả gì trừ phi Allah chấp thuận cho ai mà Ngài muốn và hài lòng ?} Al-Najm: 6 (chương 53), còn ở chương Al-Anbiya:
﴿يَعۡلَمُ مَا بَيۡنَ أَيۡدِيهِمۡ وَمَا خَلۡفَهُمۡ وَلَا يَشۡفَعُونَ إِلَّا لِمَنِ ٱرۡتَضَىٰ وَهُم مِّنۡ خَشۡيَتِهِۦ مُشۡفِقُونَ ٢٨﴾ الأنبياء: 28
{Allah am tường mọi việc trước vào sau họ (nhóm Thiên Thần) và không một ai có quyền biện hộ ngoại trừ đã được Allah hài lòng cho phép. Nhóm Thiên Thần đó luôn khiếp sợ và kính cẩn trước Ngài} Al-Ambiya: 28 (Chương 21).
Allah không hề hài lòng cho đám bầy tôi phản nhận Ngài, Ngài chỉ yêu thích những ai biết tạ ơn và việc tạ ơn bằng cách tôn thờ Ngài duy nhất và thi hành theo sắc lệnh Ngài, như ở trong chương Al-Zumar:
﴿إِن تَكۡفُرُواْ فَإِنَّ ٱللَّهَ غَنِيٌّ عَنكُمۡۖ وَلَا يَرۡضَىٰ لِعِبَادِهِ ٱلۡكُفۡرَۖ وَإِن تَشۡكُرُواْ يَرۡضَهُ لَكُمۡۗ﴾ الزمر: 7
{Nếu các ngươi phủ nhận Allah thì biết rằng Ngài rất giàu có không cần đến các ngươi, Ngài không hài lòng việc đám bầy tôi Ngài phủ nhận Ngài nhưng nếu các ngươi biết tri ân sẽ làm Ngài rất hài lòng.} Al-Zumar: 7 (chương 39).
Được ghi chép trong bộ Saheeh Al-Bukhary, từ ông Abu Hurairah t đã từng hỏi: Thưa Rasul, ai là người diễm phúc nhất được hưởng lời biện hộ của Người? Rasul e đáp:
((مَنْ قَالَ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ، خَالِصًا مِنْ قَلْبِهِ أَوْ نَفْسِهِ))
“Ai thành tâm nói hoặc nói trong lòng câu La i la ha il lol lah.”([65]) Theo một đường truyền khác từ ông Anas thuật lại lời Rasul e:
((لِكُلِّ نَبِىٍّ دَعْوَةٌ مُسْتَجَابَةٌ فَتَعَجَّلَ كُلُّ نَبِىٍّ دَعْوَتَهُ وَإِنِّى اخْتَبَأْتُ دَعْوَتِى شَفَاعَةً لأُمَّتِى يَوْمَ الْقِيَامَةِ فَهِىَ نَائِلَةٌ إِنْ شَاءَ اللهُ مَنْ مَاتَ مِنْ أُمَّتِى لاَ يُشْرِكُ بِاللهِ شَيْئًا))
“Lời cầu xin của tất cả Nabi đều được chấp nhận và các vị Nabi đó đã sớm sử dụng lời cầu xin đó. Riêng Ta để dành lời cầu xin đó để cầu xin quyền biện hộ cho tín đồ của Ta vào ngày phán xét cuối cùng. Nó sẽ dành cho những ai trong tín đồ Ta chết mà không phạm tội Shirk (tôn thờ cùng với Allah), Insha Allah (nếu Allah muốn).”([66])
Tất cả bằng chứng được tôi liệt kê từ Qur’an và Sunnah đồng khẳng định rằng việc hành đạo chỉ dành riêng cho Allah duy nhất, tuyệt đối không được hướng đến bất cứ thần linh hay ai khác ngoài Allah dù đó là Nabi hay Thiên Thần, hãy luôn đinh ninh rằng lời biện hộ là của Allah toàn quyền quyết định, Ngài phán:
﴿قُل لِّلَّهِ ٱلشَّفَٰعَةُ جَمِيعٗاۖ ﴾ الزمر: 44
{(Hỡi Muhammad) hãy bảo nhân loại rằng: “Tất cả sự biện hộ (sự phù hộ) là phần riêng thuộc về Allah.”} Al-Zumar: 44 (chương 39).
Chỉ có những ai được Allah hài lòng và cho phép biện hộ mới có quyền biện hộ hoặc hưởng biện hộ, Ngài phán:
﴿فَمَا تَنفَعُهُمۡ شَفَٰعَةُ ٱلشَّٰفِعِينَ ٤٨﴾ المدثر: 48
{Lời biện hộ của những kẻ biện hộ chẳng giúp ích gì được cho họ.} Al-Muddaththir: 48 (chương 74), ở chương khác:
﴿مَا لِلظَّٰلِمِينَ مِنۡ حَمِيمٖ وَلَا شَفِيعٖ يُطَاعُ ١٨﴾ غافر: 18
{Còn những kẻ sai quấy sẽ không có bạn bè hoặc người can thiệp nào để nhờ cậy.} Ghaafir: 18 (chương 40).
Sai quấy chính là tội Shirk như Allah phán:
﴿وَٱلۡكَٰفِرُونَ هُمُ ٱلظَّٰلِمُونَ ٢٥٤ ﴾ (البقرة : 254)
{Và những kẻ không có đức tin là những kẻ làm điều sai quấy.} Al-Baqarah: 254 (Chương 2), ở chương khác Allah phán:
﴿إِنَّ ٱلشِّرۡكَ لَظُلۡمٌ عَظِيمٞ ١٣﴾ لقمان: ١٣
{Quả thật, tổ hợp những thần linh khác cùng với Allah là một điều sai quấy vô cùng to tác.} Luqmaan: 13 (chương 31).
Riêng ý “Cầu xin Allah ban bình an cho những ai mà Ngài đã chọn làm đại diện tìm hiểu bí mật, phân chia lòng nhân từ của Ngài.” Được trả lời như sau:
Đây là câu nói của nhóm Sufi, lời nói này mang ý nghĩa khuếch đại, quá lố, lố bịch vấn đề bị Nabi e nghiêm cấm với lời nói:
((هَلَكَ المُتَنَطِّعُونَ))
“Diệt vong rồi những kẻ khuếch đại.”([67]) Người lập lại đến ba lần.
Imam Al-Khattaabi ﷺ nói: “Người khuếch đại là người cố tình đi xa quá vấn đề mà không hề có kết quả tốt.”
Ông Abu Al-Sa-a’dat Ibnu Al-Uthair ﷺ nói: “Họ là những người cố ý đi sâu, mổ xẻ một vấn đề đơn giản để nói chuyện thỏa thích, thể hiện ta đây uyên bác.”
Qua hai lời nhận định của hai vị Imam này và những Imam khác đã làm cho những ai có suy nghĩ ắt tự biết cách Salawat cho Nabi e kẻo không tự truốc họa vào thân.
Về việc Salawat cho Rasul e, Người Muslim chỉ được phép làm theo khuôn khổ giáo lý cho phép tuyệt đối không được vượt giới hạn. Trong Saheeh Al-Bukhary và Muslim từ ông Ka’b bin ﷻ’jrah kể: Những vị Sahabah đã hỏi: Thưa Rasul của Allah, Allah đã hạ lệnh cho chúng tôi phải Salawat cho Người, vậy cách Salawat ra sao ? Người đáp:
((قُولُوا: اللَّهُمَّ صَلِّ عَلَى مُحَمَّدٍ وَعَلَى آلِ مُحَمَّدٍ، كَمَا صَلَّيْتَ عَلَى إِبْرَاهِيمَ وَعَلَى آلِ إِبْرَاهِيمَ، إِنَّكَ حَمِيدٌ مَجِيدٌ، اللَّهُمَّ بَارِكْ عَلَى مُحَمَّدٍ وَعَلَى آلِ مُحَمَّدٍ، كَمَا بَارَكْتَ عَلَى إِبْرَاهِيمَ وَعَلَى آلِ إِبْرَاهِيمَ، إِنَّكَ حَمِيدٌ مَجِيدٌ))
“Các người hãy nói: Ol lo hum ma sol li a' la Muhammad wa a' la a li Muhammad, ka ma sol lay ta a' la Ibrahim wa a' la a li Ibrahim, in na ka ha mi dum ma j.i.d. Ol lo hum ma ba rik a' la Muhammad wa a' la a li Muhammad, ka ma ba rak ta a' la Ibrahim wa a' la a li Ibrahim, in na ka ha mi dum ma j.i.d”([68])
Từ ông Abu Hameed Al-Saa-i’di đã hỏi: Thưa Rasul của Allah, cách Salawat cho Người như thế nào? Người đáp:
((قُولُوا: اللَّهُـمَّ صَـلِّ عَلَـى مُحَمَّـدٍ، وَأَزْوَاجِهِ وَذُرِّيَّـتِهِ، كَمَـا صَـلَّيْتَ عَلَـى آلِ إِبْرَاهِيـمَ، وَبَارِكْ عَلَـى مُحَمَّـدٍ، وَأَزْوَاجِهِ وَذُرِّيَّتِـهِ، كَمَـا بَارَكْتَ عَلَـى آلِ إِبْرَاهِيـمَ، إِنَّكَ حَمِيـدٌ مَجِيـدٌ))
“Các người hãy nói: Ol lo hum ma sol li a' la Muhammad wa az wa ji hi wa zur ri ya ti hi, ka ma sol lay ta a' la a li Ibrahim. Wa ba rik a' la Muhammad wa az wa ji hi wa zur ri ya ti hi, ka ma ba rak ta a' la a li Ibrahim, in na ka ha mi dum ma j.i.d”([69])
Ông Abu Mas-u’d Al-Ansary kể: Ông Basheer bin Sa’d đã hỏi: Thưa Rasul của Allah, Allah đã ra lệnh cho chúng tôi Salawat cho Người nhưng cách thức ra sao? Người im lặng chốc lát rồi bảo:
((قُولُوا: اللَّهُمَّ صَلِّ عَلَى مُحَمَّدٍ وَعَلَى آلِ مُحَمَّدٍ كَمَا صَلَّيْتَ عَلَى آلِ إِبْرَاهِيمَ، وَبَارِكْ عَلَى مُحَمَّدٍ وَعَلَى آلِ مُحَمَّدٍ كَمَا بَارَكْتَ عَلَى آلِ إِبْرَاهِيمَ فِى الْعَالَمِينَ إِنَّكَ حَمِيدٌ مَجِيدٌ. وَالسَّلاَمُ كَمَا قَدْ عَلِمْتُمْ))
“Các người hãy nói: Ol lo hum ma sol li a' la Muhammad wa a’ la a li Muhammad, ka ma sol lay ta a' la a li Ibrahim. Wa ba rik a' la Muhammad wa a’ la a li Muhammad, ka ma ba rak ta a' la a li Ibrahim fil a’ la min, in na ka ha mi dum ma j.i.d”([70])
Trên là tất cả cách Salawat mà Rasul e đã dạy tín đồ Salawat cho Người, là tín đồ của Rasul e thì chỉ biết cuối đầu làm theo không được sáng chế thêm bớt, bởi Rasul e là Người tinh thông nhất trong thế giới loài người về các dùng từ cho bản thân và đối với Allah. Ngoài ra những cách Salawat khác đều không có thực đôi khi còn phạm phải tội Shirk như trong câu hỏi đã nêu. Tôi rất mong quí đạo hữu đặc biệt chú ý đến vấn đề nguy hiểm này.
Riêng những ai muốn làm theo sở thích thì hãy đọc đây lời phán:
﴿فَإِن لَّمۡ يَسۡتَجِيبُواْ لَكَ فَٱعۡلَمۡ أَنَّمَا يَتَّبِعُونَ أَهۡوَآءَهُمۡۚ وَمَنۡ أَضَلُّ مِمَّنِ ٱتَّبَعَ هَوَىٰهُ بِغَيۡرِ هُدٗى مِّنَ ٱللَّهِۚ إِنَّ ٱللَّهَ لَا يَهۡدِي ٱلۡقَوۡمَ ٱلظَّٰلِمِينَ ٥٠﴾ [سورة القصص: 50]
{Nếu như bọn chúng không chịu nghe theo Ngươi (Muhammad), hãy biết rằng bọn chúng đã đuổi theo sở thích bản thân chúng. Còn có kẻ nào lại lầm lạc hơn kẻ chỉ biết làm theo sở thích không tuân theo chỉ đạo của Allah. Quả thật, Allah chẳng hề hướng dẫn nhóm người sai quấy.} Al-Qasas: 50 (Chương 28). Trong câu Kinh này Allah phân loại con người thành hai nhóm nhìn nhận về sứ mạng của Nabi Muhammad e và tôn giáo chân chính Islam:
ü Thứ nhất: Tuân lệnh Allah và Rasul Muhammad e.
ü Thứ hai: Chạy theo sở thích riêng.
Allah báo cho biết rằng không ai lại lầm lạc bằng kẻ chỉ biết đuổi theo sở thích riêng mà từ bỏ đi chỉ đạo chân lý của Ngài.
Tôi thành khẩn van cầu Allah Đấng Hiển Vin phò hộ cho cộng động Muslim luôn đáp lợi lời kêu gọi của Ngài và Rasul Muhammad e, luôn xem trọng giáo lý Islam và xa vời với mọi điều Bid-a’h (cải biên tôn giáo) và đuổi theo dục vọng sở thích. Cầu xin bình an và phúc lành cho Nabi Muhammad, cho gia quyến cùng tất cả bằng hữu của Người và cho những ai noi theo tấm gương tốt đẹp của Người cho đến ngày tận thế.
dkf
Lời Khuyên Chung Xoay Quanh Vài Tội Lỗi Thực Tại
اَلْحَمْدُ لِلهِ وَالصَّلَاةُ وَالسَّلَامُ عَلَى مَنْ لَا نَبِيَّ بَعْدَهُ، وَعَلَى آلِهِ وَصَحْبِهِ.
Mọi lời ca ngợi và tán dương điều kính dâng Allah, cầu Ngài ban bình an và phúc lành cho vị Nabi cuối cùng, cho gia quyến cùng tất cả bằng hữu của Người.
Từ Abdul Azeez bin Abdullah bin Baaz xin gởi đến quí tín hữu Muslim đọc được bài viết này. Thành khẩn cầu xin Allah ban cho tôi cùng tất cả các bạn luôn là nhóm người đi đúng đường chánh đạo của Allah.
Assalamu a’laikum wa rahmatullahi wa barakatuh, Amma Ba’d:
Đây là lời khuyên của tôi muốn gởi đến quí đạo hữu Muslim để khuyến cáo vài vấn đề đã xảy ra do thiếu hiểu biết giáo lý, do bị lũ Shaytaan quyến rũ và do đuổi theo dục vọng bản thân của vài người.
Kêu Gọi Mọi Người Tôn Thờ Mình:
Tôi đã nghe được rằng có một số người đã tự xưng tôn, cho rằng bản thân xứng đáng được thờ phụng. Từ đó y ngụy tạo đủ điều che mắt thiên hạ nào là tinh thông thiên cơ địa lý, cứu nhân độ thế. . . đây là lời lẽ của những kẻ lầm lạc tựa như Fir-a’wn (Fa ra on) và nhóm người ngoại đạo Kafir. Quí đạo hữu phải biết rằng duy chỉ Allah mới xứng đáng được thờ phượng, Ngài có khả năng tuyệt đối vượt trên tất cả, tinh thông am tường vạn vật và giàu có vô cùng không cần đến bất cứ vật thể nào. Chỉ vì mục đích thờ phượng mà Allah đã tạo ra thiên hạ, lập nên vủ trụ trời đất, cử phái Rasul, thiên khải Kinh Sách, tạo ra con người và ma quỉ và dựng cờ thánh chiến, Allah phán:
﴿وَمَا خَلَقۡتُ ٱلۡجِنَّ وَٱلۡإِنسَ إِلَّا لِيَعۡبُدُونِ ٥٦﴾ الذاريات: ٥٦
{Và TA (Allah) không tạo hóa ra loài Jin và loài người ngoại trừ để tôn thờ TA.} Al-Zariyat: 56 (chương 51), ở chương khác Allah phán:
﴿وَمَنۡ أَضَلُّ مِمَّن يَدۡعُواْ مِن دُونِ ٱللَّهِ مَن لَّا يَسۡتَجِيبُ لَهُۥٓ إِلَىٰ يَوۡمِ ٱلۡقِيَٰمَةِ وَهُمۡ عَن دُعَآئِهِمۡ غَٰفِلُونَ ٥ وَإِذَا حُشِرَ ٱلنَّاسُ كَانُواْ لَهُمۡ أَعۡدَآءٗ وَكَانُواْ بِعِبَادَتِهِمۡ كَٰفِرِينَ ٦﴾ الأحقاف: 5 - 6
{Và lầm lạc thay cho kẻ cầu xin (những thần linh khác) thay vì cầu xin Allah, chúng (những thần linh) không hề đáp lại lời cầu xin đó cho đến ngày tận thế và chính chúng cũng chẳng biết đến lời cầu xin đó * Và một khi cả nhân loại được phục sinh sống lại (thì những thần linh và người được cầu xin) lại là kẻ thù của nhau. Lúc đó (những thần linh) phủ nhận hết tất cả sự tôn thờ dành cho y.} Al-Ahqaaf: 5 - 6 (chương 46), ở chương khác Allah phán:
﴿وَمَن يَدۡعُ مَعَ ٱللَّهِ إِلَٰهًا ءَاخَرَ لَا بُرۡهَٰنَ لَهُۥ بِهِۦ فَإِنَّمَا حِسَابُهُۥ عِندَ رَبِّهِۦٓۚ إِنَّهُۥ لَا يُفۡلِحُ ٱلۡكَٰفِرُونَ ١١٧﴾ المؤمنون: ١١٧
{Và ai cầu nguyện cùng với Allah một thần linh khác mà không có bằng chứng nào về việc thờ phụng đó thì việc thanh toán y chỉ thuộc về Thượng Đế của y. Quả thật, Ngài không giúp những kẻ ngoại đạo chiến thắng.} Al-Muminoon: 117 (chương 23), ở chương khác:
﴿وَلَا تَدۡعُ مِن دُونِ ٱللَّهِ مَا لَا يَنفَعُكَ وَلَا يَضُرُّكَۖ فَإِن فَعَلۡتَ فَإِنَّكَ إِذٗا مِّنَ ٱلظَّٰلِمِينَ ١٠٦ ﴾ (سورة يونس: 106)
{Và chớ đừng cầu nguyện, khấn vái ngoài Allah những ai (vật) không thể mang lợi cũng chẳng thể gây hại được Ngươi. Mà nếu Ngươi làm thế thì quả thật Ngươi sẽ là một kẻ sai phạm.} Yunus: 106 (Chương 10), ở chương khác:
﴿إِنَّ ٱللَّهَ لَا يَغۡفِرُ أَن يُشۡرَكَ بِهِۦ وَيَغۡفِرُ مَا دُونَ ذَٰلِكَ لِمَن يَشَآءُۚ﴾ النساء: ٤٨
{Quả thật, Allah không tha thứ cho hành vi Shirk (hành vi gán ghép một đối tác ngang hàng với Allah trong thờ phượng) nhưng Ngài sẽ tha thứ cho những tội lỗi khác cho người nào Ngài muốn.} Al-Nisa: 48 (chương 4), ở chương khác:
﴿إِنَّ ٱلشِّرۡكَ لَظُلۡمٌ عَظِيمٞ ١٣﴾ لقمان: ١٣
{Quả thật, tổ hợp những thần linh khác cùng với Allah là một điều sai quấy vô cùng to tác.} Luqmaan: 13 (chương 31), ở chương khác:
﴿لَقَدۡ كَفَرَ ٱلَّذِينَ قَالُوٓاْ إِنَّ ٱللَّهَ هُوَ ٱلۡمَسِيحُ ٱبۡنُ مَرۡيَمَۖ وَقَالَ ٱلۡمَسِيحُ يَٰبَنِيٓ إِسۡرَٰٓءِيلَ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ رَبِّي وَرَبَّكُمۡۖ إِنَّهُۥ مَن يُشۡرِكۡ بِٱللَّهِ فَقَدۡ حَرَّمَ ٱللَّهُ عَلَيۡهِ ٱلۡجَنَّةَ وَمَأۡوَىٰهُ ٱلنَّارُۖ وَمَا لِلظَّٰلِمِينَ مِنۡ أَنصَارٖ ٧٢﴾ المائدة: ٧٢
{Quả thật, những ai nói: “Allah chính là (Nabi Ysa – Giê-su) con trai của Mar-yam (Maria)” là những kẻ vô đức tin thật sự. Ngược lại, chính (Nabi Ysa – Giê-su) đã nói: “Hỡi con cháu Israa-il! Các người hãy tôn thờ Allah, Ngài chính là Thượng Đế của ta và của các người.” Quả thật, những ai thờ phụng những thần linh khác bên cạnh Allah thì chắc chắn Allah sẽ cấm y vào Thiên Đàng và nơi ở dành cho y chính là hỏa ngục. Và không có sự giúp đỡ nào đối với những kẻ chuyên làm điều sai trái ngông cuồng.} Al-Maa-idah: 72 (chương 5), ở chương khác:
﴿ٱتَّخَذُوٓاْ أَحۡبَارَهُمۡ وَرُهۡبَٰنَهُمۡ أَرۡبَابٗا مِّن دُونِ ٱللَّهِ وَٱلۡمَسِيحَ ٱبۡنَ مَرۡيَمَ وَمَآ أُمِرُوٓاْ إِلَّا لِيَعۡبُدُوٓاْ إِلَٰهٗا وَٰحِدٗاۖ لَّآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَۚ سُبۡحَٰنَهُۥ عَمَّا يُشۡرِكُونَ ٣١﴾ (التوبة : 31)
{Họ đã lấy các thầy tu Do thái và thầy tu Công giáo làm thượng Đế của họ thay vì Allah, và lấy cả Masih (Ysa) con trai của Maryam (làm Thượng Đế của họ) trong lúc tất cả bọn họ được lệnh chỉ thờ phượng một Thượng Đế duy nhất, không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài. Ngài quang vinh và trong sạch về những điều (kẻ) mà họ đã tổ hợp cùng với Allah.} Al-Tawbah – 31 (chương 9), ở chương khác:
﴿۞وَقَضَىٰ رَبُّكَ أَلَّا تَعۡبُدُوٓاْ إِلَّآ إِيَّاهُ﴾ الإسراء: ٢٣
{Và Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) đã quyết định rằng các người chỉ được phép thờ phụng Ngài duy nhất.} Al-Isra: 23 (chương 17).
Tất cả các câu Kinh trên đồng khẳng định việc tôn thờ ngoài Allah hoặc tôn thờ cùng với Allah dù là Thiên Thần, là Nabi, là người đức hạnh, cây cối, đất đá, bụt tượng . . . đều là đại tội Shirk xóa đi tính Tawhid tức độc tôn của Allah, bởi đây là ý nghĩa việc mời gọi thiên hạ quy phục Islam và là ý nghĩa của câu La i la ha il lol loh tức không có Thượng Đến nào xứng đáng được thờ phượng ngoại trừ Allah duy nhất.
Một sự hành đạo đúng là phải phủ nhận mọi thần linh ngoài Allah không xứng đáng được tôn thờ và xác nhận việc thờ phượng dành riêng cho Allah như đã phán:
﴿ذَٰلِكَ بِأَنَّ ٱللَّهَ هُوَ ٱلۡحَقُّ وَأَنَّ مَا يَدۡعُونَ مِن دُونِهِۦ هُوَ ٱلۡبَٰطِلُ﴾ الحج: ٦٢
{(Sự việc như) thế đấy là bởi chính Allah là Đấng Chân Lý Tuyệt Đối và chắc chắn những ai cầu xin ngoài Allah tất cả đều do hư cấu, giả tạo.} Al-Haj: 62 (chương 22). Đây chính là nguồn gốc của thờ phượng, là nguyên lý chính của giáo lý Islam và sự thờ phượng không được công nhận nếu thiếu đi nguyên tố này, Allah phán:
﴿وَلَقَدۡ أُوحِيَ إِلَيۡكَ وَإِلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِكَ لَئِنۡ أَشۡرَكۡتَ لَيَحۡبَطَنَّ عَمَلُكَ وَلَتَكُونَنَّ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَ ٦٥﴾ (الزمر: 65)
{Và quả thật, Ngươi (Muhammad) và những vị Nabi trước Ngươi đã được mặc khải cho biết rằng: Nếu Ngươi làm điều Shirk (thờ phượng một thần linh khác cùng với Allah) thì việc làm của các ngươi sẽ trở thành vô nghĩa và chắc chắn rằng Ngươi sẽ là đồng bọn của những kẻ thất bại thật thảm hại.} Al-Zumar: 65 (Chương 39), Allah phán ở chương khác:
﴿وَلَوۡ أَشۡرَكُواْ لَحَبِطَ عَنۡهُم مَّا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ ٨٨﴾ الأنعام: ٨٨
{Nhưng nếu họ tổ hợp (trong việc tôn thờ) những thần linh khác cùng với Ngài thì tất cả việc hành đạo của họ sẽ tiêu tan hết.} Al-An-a'm: 88 (chương 6).
Ở các câu Kinh khác Allah ra lệnh tín đồ thành tâm tôn thờ Ngài và khuyến cáo sự lệch lạc trong thờ phượng với lời phán:
﴿وَلَقَدۡ بَعَثۡنَا فِي كُلِّ أُمَّةٖ رَّسُولًا أَنِ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ وَٱجۡتَنِبُواْ ٱلطَّٰغُوتَۖ﴾ النحل: ٣٦
{Và chắc chắn TA đã cử phái cho mỗi cộng đồng một vị Thiên Sứ (với mệnh lệnh): “Hãy thờ phụng Allah (duy nhất) và tránh xa Toghut (Tà Thần).”} Al-Nahl: 36 (chương 16), ở chương khác:
﴿وَمَا أَرْسَلْنَا مِنْ قَبْلِكَ مِنْ رَسُولٍ إِلا نُوحِي إِلَيْهِ أَنَّهُ لا إِلَهَ إِلا أَنَا فَاعْبُدُونِ ﭠ ﴾ الأنبياء: ٢٥
{Và không một Rasul (Thiên Sứ, Nabi hay Sứ Giả) nào được cử phái trước Ngươi (Muhammad) mà TA lại không bảo: “Quả thật, không có Thượng Đế nào khác xứng đáng được thờ phụng ngoài TA, do đó hãy thờ phụng riêng TA.”} Al-Ambiya: 25 (chương 21), ở chương khác:
﴿الٓرۚ كِتَٰبٌ أُحۡكِمَتۡ ءَايَٰتُهُۥ ثُمَّ فُصِّلَتۡ مِن لَّدُنۡ حَكِيمٍ خَبِيرٍ ١ أَلَّا تَعۡبُدُوٓاْ إِلَّا ٱللَّهَۚ إِنَّنِي لَكُم مِّنۡهُ نَذِيرٞ وَبَشِيرٞ ٢﴾ هود: 1 - 2
{Alif. Lam. Ra. (Đây là) một Kinh Sách gồm những Câu cơ bản có ý nghĩa rõ ràng tiếp đó được giải thích chi tiết bởi Đấng Sáng Suốt, Đấng Hằng Quen thuộc (với mọi việc) * Các ngươi chỉ được phép tôn thờ Allah duy nhất. Quả thật, Ta là Người khuyến cáo (kẻ bất tuân) và là người báo tin mừng cho người (ngoan đạo).} Hud: 1- 2 (chương 11), ở chương khác:
﴿هَٰذَا بَلَٰغٞ لِّلنَّاسِ وَلِيُنذَرُواْ بِهِۦ وَلِيَعۡلَمُوٓاْ أَنَّمَا هُوَ إِلَٰهٞ وَٰحِدٞ وَلِيَذَّكَّرَ أُوْلُواْ ٱلۡأَلۡبَٰبِ ٥٢﴾ إبراهيم: 52
{Đây (Thiên Kinh Qur’an) chính là thiên khải muốn loan báo cho loài người, để khuyến cáo (kẻ chống đối), để thiên hạ nhận biết rằng Thượng Đế Alalh chỉ là Đấng duy nhất và là lời nhắc nhở dành cho nhóm người biết suy ngẫm.} Ibrahim: 52 (chương 14).
Có Hadith ghi nhận trong hai bộ Saheeh Al-Bukhary và Muslim, một người hỏi Nabi e: Tội nào to lớn nhất ?
((أَنْ تَجْعَلَ لِلهِ نِدّاً وَهْوَ خَلَقَكَ))
“Anh tạo dựng Nid khác ngang hàng với Allah trong khi Ngài tạo hóa ra anh.”
Chữ “Nid” có nghĩa là: là con người, là động vật, vật vô tri hoặc thánh thần hay ma quỉ được tôn thờ, được khấn vái, được bái tế, được cúng tế, được tôn trọng, được sợ hãi.
Có Hadith khác, Rasul e hỏi:
((يَا مُعَاذُ أَتَدْرِى مَا حَقُّ اللهِ عَلَى الْعِبَادِ وَمَا حَقُّ الْعِبَادِ عَلَى اللهِ ؟))
“Này Mu-a’z anh cho biết nhiệm vụ, và quyền lợi của con người đối với Allah là gì không ?” Ông Mu-a’z đáp: Allah và Rasul mới rõ. Người tiếp:
((حَقُّ اللهِ عَلَى الْعِبَادِ أَنْ يَعْبُدُوهُ وَلاَ يُشْرِكُوا بِهِ شَيْئًا، وَحَقَّ الْعِبَادِ عَلَى اللهِ أَنْ لاَ يُعَذِّبَ مَنْ لاَ يُشْرِكُ بِهِ شَيْئًا))
“Nhiệm vụ của họ là chỉ tôn thờ Allah duy nhất, tuyệt đối không được đồng đẳng với Ngài trong thờ phụng và quyền lợi của họ là Allah không trừng trị những ai đã không vi phạm đại tội Shirk.”
Trong những lầm lạc khác là có số người Muslim lại tin tưởng di đoan như bùa ngải, bói toán, tiên đoán, may gủi . . . đây chính là những điều nguy hại vô cùng và là nhánh của tội phủ nhận đức tin vì Rasul e đã nói:
((مَنْ أَتَى عَرَّافًا فَسَأَلَهُ عَنْ شَىْءٍ لَمْ تُقْبَلْ لَهُ صَلاَةٌ أَرْبَعِينَ لَيلَةً))
“Người (Muslim) nào tìm đế nhà chiêm tinh để tìm hiểu thông tin thì lễ Salah của y không được (Allah) chấp nhận trong bốn mươi ngày (đêm).”([71])
Theo Muslim ghi lại từ một số vợ của Nabi e, Người nói:
((مَنْ أَتَى عَرَّافاً أَوْ كَاهِناً فَصَدَّقَهُ بِمَا يَقُولُ فَقَدْ كَفَرَ بِمَا أُنْزِلَ عَلَى مُحَمَّدٍ e))
“Người (Muslim) nào tìm đến nhà tiên đoán hoặc thầy bói và tin tưởng vào lời lẽ chúng nói thì y đã phủ nhận hết tất cả mọi thông tin được mặc khải cho Muhammad e.”([72])
Người Muslim phải luôn đề cao cảnh giác, luôn nằm lòng rằng không một ai lại có thể thấu hiểu được thiên cơ huyền bí ngoại Allah cả dù đó là Đại Thiên Thần Jibreel hay vị Nabi được trọng dụng nhất, Allah phán:
﴿قُل لَّا يَعۡلَمُ مَن فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ ٱلۡغَيۡبَ إِلَّا ٱللَّهُۚ وَمَا يَشۡعُرُونَ أَيَّانَ يُبۡعَثُونَ ٦٥ ﴾ النمل: 65
{(Hỡi Muhammad) hãy báo với nhân loại: “Không một ai dù ở trên trời (như Thiên Thần) cũng như (Ma quỉ, loài người) ở dưới đất có thể biết được chuyện huyền bí thiên cơ, ngoại trừ Allah duy nhất (tin thông tất cả). Và tất cả bọn chúng sẽ không cảm nhận được bao giờ chúng sẽ được phục sinh.”} Al-Naml: 65 (chương 27).
Allah ra lệnh Rasul e phải truyền đạt lời mặc khải đến thiên hạ,
﴿قُل لَّآ أَقُولُ لَكُمۡ عِندِي خَزَآئِنُ ٱللَّهِ وَلَآ أَعۡلَمُ ٱلۡغَيۡبَ وَلَآ أَقُولُ لَكُمۡ إِنِّي مَلَكٌۖ إِنۡ أَتَّبِعُ إِلَّا مَا يُوحَىٰٓ إِلَيَّۚ قُلۡ هَلۡ يَسۡتَوِي ٱلۡأَعۡمَىٰ وَٱلۡبَصِيرُۚ أَفَلَا تَتَفَكَّرُونَ ٥٠﴾ الأنعام: 50
{Hãy bảo họ (Muhammad): “Ta không hề nói rằng là Ta sử hửu trong tay những kho báu của Allah, Ta cũng không hề biết được bất cứ việc thiên cơ huyền bí nào, lại càng không xưng rằng Ta là Thiên Thần. Chẳng qua, Ta chỉ làm theo những gì Ta được mặc khả thôi.” Hãy bảo chúng tiếp: “Giữa người mù và người sáng mắt có ngang như nhau không, thế tạo sao các người không suy nghĩ ?”} Al-An-a'm: 50 (chương 6), ở chương khác:
﴿قُل لَّآ أَمۡلِكُ لِنَفۡسِي نَفۡعٗا وَلَا ضَرًّا إِلَّا مَا شَآءَ ٱللَّهُۚ وَلَوۡ كُنتُ أَعۡلَمُ ٱلۡغَيۡبَ لَٱسۡتَكۡثَرۡتُ مِنَ ٱلۡخَيۡرِ وَمَا مَسَّنِيَ ٱلسُّوٓءُۚ إِنۡ أَنَا۠ إِلَّا نَذِيرٞ وَبَشِيرٞ لِّقَوۡمٖ يُؤۡمِنُونَ ١٨٨ ﴾ الأعراف: ١٨٨
{Hãy bảo họ (Muhammad): “Ta không có quyền quyết định điều lợi hoặc hại cho chính bản thân của Ta trừ phi điều nào Allah muốn. Và nếu Ta biết điều vô hình thì chắc chắn Ta sẽ tom góp nhiều điều tốt cho Ta và Ta sẽ không gặp một điều bất hạnh nào. Chẳng qua Ta chỉ là một người khuyến cáo (hành phạt hỏa ngục) và thông báo tin mừng (thiên đàng) đến với nhóm người có lòng tin nơi (Allah).} Al-A'raaf: 188 (chương 7). Thấy đó, vị Rasul Muhammad thân tín, Người tốt nhất trong giới Nabi mà vẫn không biết được tí huyền cơ nào thì ngoài Người ai lại biết được ?
Là Muslim ai dám tự nhận hoặc tin rằng trong thiên hạ có người biết được thiên cơ huyền bí là y đã rơi vào lầm lạc khôn lường, đã tự xóa đức tin vào Allah và trở thành người Kafir phản đạo, Allah phán:
﴿إِنَّ ٱللَّهَ عِندَهُۥ عِلۡمُ ٱلسَّاعَةِ وَيُنَزِّلُ ٱلۡغَيۡثَ وَيَعۡلَمُ مَا فِي ٱلۡأَرۡحَامِۖ وَمَا تَدۡرِي نَفۡسٞ مَّاذَا تَكۡسِبُ غَدٗاۖ وَمَا تَدۡرِي نَفۡسُۢ بِأَيِّ أَرۡضٖ تَمُوتُۚ إِنَّ ٱللَّهَ عَلِيمٌ خَبِيرُۢ ٣٤﴾ (سورة لقمان: 34)
{Quả thật chỉ riêng một mình Allah mới biết rõ giờ khắc phục sinh sẽ xảy đến khi nào, và Ngài là Đấng ban mưa xuống và biết những gì nằm trong các dạ con. Và không một linh hồn nào biết rõ vật gì y sẽ kiếm được vào ngày mai; và không linh hồn nào biết được đâu là mảnh đất mà y sẽ chết. Quả thật, Allah là Đấng Hiểu biết và Am tường.} Luqmaan: 34 (chương 31). Với câu Kinh này ông Ibnu Mas-u’d nói: “Nabi e được ban cho tất cả ngoại trừ năm điều được nhắc trong câu Kinh.”
Ông Ibnu A’bbaas k nói: “Đây là năm điều mà không một ai biết được chúng kể cả Thiên Thần hay Nabi Rasul. Ai dám tự xưng tinh thông về những điều này là y đã phủ nhận Qur’an và bát bỏ lời phán của Allah. Chẳng qua giới Rasul thấu hiểu được chuyện huyền bí là do Allah truyền tin cho họ.”
Niềm tin vào việc huyền bí làm một trong các nền tản căn bản của niềm tin Islam và là đức tín của người Muslim chân chính. Ngược lại tự nhận tinh thông huyền có diệu đoán là bản tính của thầy bói, nhà chiêm tinh, người đi lệch chính đạo của Allah, và những người lầm lạc trong cộng đồng Muslim, bởi Allah đã khẳng định:
﴿۞وَعِندَهُۥ مَفَاتِحُ ٱلۡغَيۡبِ لَا يَعۡلَمُهَآ إِلَّا هُوَۚ﴾ الأنعام: ٥٩
{Mọi chìa khóa (hay kho tàn) của cõi vô hình huyền bí đều nằm nơi Ngài (Allah), chỉ riêng Ngài mới biết rõ chúng.} Al-An-a'm: 59 (chương 6). Và có Hadith, Rasul e nói:
((مَفَاتِحُ الْغَيْبِ خَمْسٌ:))
“Việc vô hình huyền bí gồm năm loại:”([73]) rồi Người đọc câu Kinh:
﴿إِنَّ ٱللَّهَ عِندَهُۥ عِلۡمُ ٱلسَّاعَةِ وَيُنَزِّلُ ٱلۡغَيۡثَ . . .﴾ (سورة لقمان: 34)
{Quả thật chỉ riêng một mình Allah mới biết rõ giờ khắc phục sinh sẽ xảy đến khi nào . . .} Luqmaan: 34 (chương 31).
Đến đây nhiệm vụ của giới thông thạo giáo lý Islam phải khuyến cáo tín đồ về mối thảm họa khôn lường này, bởi họ sẽ chịu trách nhiệm trước Allah trong ngày phán xử vĩ đại, Ngài phán:
﴿لَوۡلَا يَنۡهَىٰهُمُ ٱلرَّبَّٰنِيُّونَ وَٱلۡأَحۡبَارُ عَن قَوۡلِهِمُ ٱلۡإِثۡمَ وَأَكۡلِهِمُ ٱلسُّحۡتَۚ لَبِئۡسَ مَا كَانُواْ يَصۡنَعُونَ ٦٣﴾ المائدة: 63
{Tại sao những kẻ am hiểu giáo lý trong số lãnh đạo và giới học thức lại không cấm cản giáo dân nói điều tội lỗi và ăn những điều bị cấm ? Quả là xấu xa làm sao cho việc chúng làm.} Al-Maa-idah: 63 (chương 5).
Tương tự, ai cho rằng dòng tộc Haashim được tha bổng về mọi tội lỗi dù có làm tội gì, thế nào, đây là một niềm tin sai lệch. Quả thật, Allah không hề suy xét về góc độ thân tộc, tài sản hay địa vị, Ngài chỉ chú trọng đến hành động tay chân và suy nghĩ của con tim mà thôi. Đối với ai luôn ngoan đạo mực mực tuân thủ sắc lệnh của Allah và tránh xa mọi điều giáo luật cấm và hết lòng kính sợ Allah thì y là người được Allah quan tâm đoái hoài không phân biệt là người Ả-rập hay không, thuộc dòng tộc Haashim hay không, bởi tất cả tài sản, thân tộc và địa vị vốn chẳng là gì đối với Allah như được phán trong Qur’an:
﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ إِنَّا خَلَقۡنَٰكُم مِّن ذَكَرٖ وَأُنثَىٰ وَجَعَلۡنَٰكُمۡ شُعُوبٗا وَقَبَآئِلَ لِتَعَارَفُوٓاْۚ إِنَّ أَكۡرَمَكُمۡ عِندَ ٱللَّهِ أَتۡقَىٰكُمۡۚ﴾ الحجرات: ١٣
{Hỡi nhân loại! Quả thật, TA (Allah) đã tạo hóa ra các người từ một cá thể nam và một cá thể nữ và từ đó tạo cho các người thành quốc gia và bộ lạc để các người nhận biết nhau (như anh em). Quả thật, dưới cái nhìn của Allah, người vinh dự nhất là người ngay chính và sợ Allah nhất trong các người.} Al-Hujuraat: 13 (chương 49).
Rasul e đã từng nói:
((إِنَّ اللهَ لاَ يَنْظُرُ إِلَى صُوَرِكُمْ وَأَمْوَالِكُمْ وَلَكِنْ يَنْظُرُ إِلَى قُلُوبِكُمْ وَأَعْمَالِكُمْ))
“Quả thật, Allah chẳng quan tâm đến diện mạo cũng như tài sản của các ngươi, Ngài chỉ chú tâm đến (suy nghĩ của) con tim và hành động của các ngươi mà thôi.”([74]) Ở Hadith khác Người nói:
((أَلَا وَإِنَّ فِي الْجَسَدِ مُضْغَةً إِذَا صَلَحَتْ صَلَحَ الْجَسَدُ كُلُّهُ وَإِذَا فَسَدَتْ فَسَدَ الْجَسَدُ كُلُّهُ أَلَا وَهِيَ الْقَلْبُ))
“Chẳng phải trong mỗi người có một cục máu nếu nó tốt lành thì cả cơ thể sẽ tốt lành còn nếu nó hư đốn thì cả cơ thể sẽ hư đốn theo, chẳng phải đó là con tim hay sao ?”([75])
Tuy Abu Taalib là bác ruột của Rasul Muhammad e nhưng tình thân tộc đó hoàn toàn không hề giúp ích gì được cho ông bởi ông đã lìa đời trên thuyết tôn thờ của ông bà tổ tiên. Trước khi ông trút hơi thờ cuối cùng Rasul e đã cố công nài nĩ bác Mình nói đi câu La i la ha il lol loh để Rasul làm cơ sở mà biện hộ trước Allah như vô ích. Sau khi ông qua đời vì thương bác ruột nên Rasul e đã khẩn cầu Allah tha thứ cho bác nhưng bị Allah cấm:
﴿مَا كَانَ لِلنَّبِيِّ وَٱلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ أَن يَسۡتَغۡفِرُواْ لِلۡمُشۡرِكِينَ وَلَوۡ كَانُوٓاْ أُوْلِي قُرۡبَىٰ مِنۢ بَعۡدِ مَا تَبَيَّنَ لَهُمۡ أَنَّهُمۡ أَصۡحَٰبُ ٱلۡجَحِيمِ ١١٣﴾ التوبة: 113
{Đối với Nabi và những người có đức tin không được phép cầu xin tha thứ cho những người Đa Thần giáo dù đó là bà con ruột thịt, kể từ khi đã phân biệt rõ ràng rằng họ là những người bạn của hỏa ngục.} Al-Tawbah: 113 (chương 9), chưa hết Allah còn tuyệt đối khẳng định rằng chính Rasul Muhammad e không có tí thẩm quyền hướng bất cứ ai đến được chính đạo Islam cho dù rất muốn:
﴿إِنَّكَ لَا تَهۡدِي مَنۡ أَحۡبَبۡتَ وَلَٰكِنَّ ٱللَّهَ يَهۡدِي مَن يَشَآءُۚ﴾ القصص: ٥٦
{Chắc chắn rằng Ngươi (Muhammad) không thể hướng dẫn được ai mà Ngươi thương theo đúng Chính Ðạo nhưng Allah lại muốn dẫn dắt bất cứ ai (theo chính đạo) tùy ý Ngài.} Al-Qasas: 56 (Chương 28).
Tương tự, Abu Labh cũng là bác ruột của Rasul e, ông đã chết là người Kafir phủ nhận đức tin Allah, trong lúc ông hãy còn sống Allah đã khẳng định rằng ông là người của hỏa ngục bởi bao tội lỗi gây ra chống đối Nabi e và chương Kinh đó được bảo tồn, được xướng đọc cho đến ngày tận thế được thiết lập, đó là chương Kinh:
﴿تَبَّتۡ يَدَآ أَبِي لَهَبٖ وَتَبَّ ١ مَآ أَغۡنَىٰ عَنۡهُ مَالُهُۥ وَمَا كَسَبَ ٢ سَيَصۡلَىٰ نَارٗا ذَاتَ لَهَبٖ ٣ وَٱمۡرَأَتُهُۥ حَمَّالَةَ ٱلۡحَطَبِ ٤ فِي جِيدِهَا حَبۡلٞ مِّن مَّسَدِۢ ٥﴾ المسد: ١ - ٥
{Đôi tay của Abu Lahb bị hủy diệt và y cũng bị hủy diệt * Của cải và tất cả những gì mà y gom góp được sẽ chẳng giúp ích gì được cho y * Y sẽ bị đốt trong lửa ngùn ngụt cháy * Và vợ của y, người đã từng vác gai (gieo trên đường đi của Nabi cũng bị cùng số mạng) * Cổ của bà ta sẽ bị thắt bởi một sợi dây thừng.} Al-Masad: 1 – 5 (chương 111). Giá trị thật sự đối với Allah là niềm tin vào Ngài và noi theo tấm gương của Nabi e bằng niềm tin, lời nói và hành động, ngoài ra không có thứ gì đáng quí cả, bởi Rasul e đã nói:
((مَنْ بَطَّأَ بِهِ عَمَلُهُ لَمْ يُسْرِعْ بِهِ نَسَبُهُ))
“Ai trì hoãn việc hành đạo thì dòng dõi sẽ chẳng nhanh hơn.”([76]) Và Người từng khuyến cáo thân tộc Người rằng:
((يَا مَعْشَرَ قُرَيْشٍ اشْتَرُوا أَنْفُسَكُمْ، لاَ أُغْنِى عَنْكُمْ مِنَ اللهِ شَيْئاً))
“Này dòng tộc Quraish, các người hãy bán thân mình cho Allah, chắc chắn rằng Ta chẳng giúp ích gì được cho các người đâu.”([77]) Tương tự thế Người đã nói với người bác ruột khác là ông A’bbaas, người cô ruột là bà Safiyah và con gái ruột là bà Fatimah, nếu dòng tộc giúp ích được gì là đã giúp ích được cho những người này rồi.
Tin Rằng Ngoài Allah Có Người Trợ Giúp, Gây Hại & Ban Lành Bệnh
Trong những điều cần được khuyến cáo đó là trong cộng đồng Muslim còn có người tin tưởng sai lệch trầm trọng rằng có một số thầy lang và ông thầy nào đó có khả năng chữa lành bệnh, giúp giải nạn và ban cho may mắn. Khẩn cầu Allah che trở tránh khỏi mù quáng và lầm lạc này.
Niềm tin này đã xóa đi lòng tin vào Allah, trong khi chính Ngài mới thật sự là Đấng trợ giúp và gây hại, Đấng ban phát, Đấng ban cho sống chết, Đấng quản lý và thống trị, Allah tối cao biết bao so với những điều con người gán ghép, Ngài phán:
﴿وَإِن يَمۡسَسۡكَ ٱللَّهُ بِضُرّٖ فَلَا كَاشِفَ لَهُۥٓ إِلَّا هُوَۖ وَإِن يُرِدۡكَ بِخَيۡرٖ فَلَا رَآدَّ لِفَضۡلِهِۦۚ يُصِيبُ بِهِۦ مَن يَشَآءُ مِنۡ عِبَادِهِۦۚ﴾ (سورة يونس: 107)
{Và nếu như Allah muốn gây hại Ngươi (Muhammad) thì chẳng có ai có năng lực bảo vệ Ngươi, còn nếu Ngài muốn ban tốt lành cho Ngươi thì cũng chẳng có ai có thẩm quyền mà cản nó. Ngài sử dùng quyền lực đó đối với bất cứ ai trong đám bầy tôi của Ngài.} Yunus: 107 (Chương 10). Người Muslim nào dám tin trong thiên hạ có người có khả năng gây hại hoặc trợ giúp và ban cho hết bệnh ngoài Allah là y đã phủ nhận Allah, phủ nhận Qur’an, phủ nhận giới Thiên Thần và giới Rasul của Allah. Trong Qur’an Allah đã phán bảo với vị Rasul e thân tín nhất của Người:
﴿قُلۡ إِنِّي لَآ أَمۡلِكُ لَكُمۡ ضَرّٗا وَلَا رَشَدٗا ٢١ قُلۡ إِنِّي لَن يُجِيرَنِي مِنَ ٱللَّهِ أَحَدٞ وَلَنۡ أَجِدَ مِن دُونِهِۦ مُلۡتَحَدًا ٢٢ إِلَّا بَلَٰغٗا مِّنَ ٱللَّهِ وَرِسَٰلَٰتِهِۦۚ﴾ الجن: 21 - 23
{Hãy bảo họ (Muhammad): “Ta không hề nắm trong tay quyền ám hại hoặc hướng dẫn một ai đó.” * Hãy bảo chúng tiếp: “Chắc chắn rằng sẽ không một ai có thể cứu Ta thoát khỏi hành phạt của Allah (nếu Ta bất tuân Ngài) và ngoài Ngài ra Ta cũng sẽ không tìm được đâu chổ nương tựa an toàn.” * Ngoại trừ những ai nhận được những lời thông điệp từ Allah.} Al-Jin: 21 - 23(chương 72), và Rasul e đã di huấn:
((إِذَا سَأَلْتَ فَاسْأَلِ اللهِ وَإِذَا اسْتَعَنْتَ فَاسْتَعِنْ بِاللهِ))
“Một khi anh muốn khẩn cầu và cầu cứu thì hãy khẩn cầu và cầu cứu Allah.”([78])
Vì vậy, tín đồ nào khuyếch đại bất cứ Nabi hay người ngoan đạo hoặc Waly và xem họ như thần thánh điển hình như cầu: này ông hãy ban cho tôi lành bệnh hoặc trợ giúp tôi hoặc ban tôi bổng lộc hoặc ban biến tôi giàu có . . . đều vị phạm đại tội Shirk và lầm lạc khôn lường, yêu cầu phải sám hối nếu không là người Kafir từ đó.
Tương tự, ai tạo trung gian giữa y và Allah để cầu xin, nhờ cậy, phó thác là trở thành người Kafir dưới sự thống nhất của toàn thể ﷻ’lama, dù người trung gian là Nabi, là ma, là Thiên Thần... đều đồng tội như nhau. Ngoại trừ việc nhờ cậy người còn sống đang có mặt nghe hiểu được lời nói là được phép, đây không phải là thể loại Shirk được tất cả cộng đồng ưng thuận, bởi Allah đã kể về câu chuyện giữa Nabi Musa u:
﴿فَٱسۡتَغَٰثَهُ ٱلَّذِي مِن شِيعَتِهِۦ عَلَى ٱلَّذِي مِنۡ عَدُوِّهِۦ﴾ سورة القصص: 15
{Và người thuộc phe của Y gọi Y tiếp tay để đánh lại kẻ địch.} Al-Qasas: 15 (chương 28). Trong Sunnah cũng có bằng chứng mang ý nghĩa này. Cầu xin Allah ban thành công cho tất cả.
Chọn Môn Đăng Hộ Đối Để Cưới Gả
Trong những điều đáng khuyến cáo là có số người tự cho rằng mình hoặc gia đình hoặc dòng tộc là người danh giá nên cưới gả phải lựa người danh giá tương tự để kết hôn. Đây là một việc làm sai trái đáng bị lên án, tạo bất công với phụ nữ, tự tạo ra một luật vốn không có trong giáo lý Islam, Allah phán:
﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ إِنَّا خَلَقۡنَٰكُم مِّن ذَكَرٖ وَأُنثَىٰ وَجَعَلۡنَٰكُمۡ شُعُوبٗا وَقَبَآئِلَ لِتَعَارَفُوٓاْۚ إِنَّ أَكۡرَمَكُمۡ عِندَ ٱللَّهِ أَتۡقَىٰكُمۡۚ﴾ الحجرات: ١٣
{Hỡi nhân loại! Quả thật, TA (Allah) đã tạo hóa ra các người từ một cá thể nam và một cá thể nữ và từ đó tạo cho các người thành quốc gia và bộ lạc để các người nhận biết nhau (như anh em). Quả thật, dưới cái nhìn của Allah, người vinh dự nhất là người ngay chính và sợ Allah nhất trong các người.} Al-Hujuraat: 13 (chương 49), ở câu khác:
﴿إِنَّمَا ٱلۡمُؤۡمِنُونَ إِخۡوَةٞ﴾ الحجرات: ١٠
{Chỉ có những người có đức tin mới là anh em của nhau.} Al-Hujuraat: 10 (chương 49), ở chương khác:
﴿ وَٱلۡمُؤۡمِنُونَ وَٱلۡمُؤۡمِنَٰتُ بَعۡضُهُمۡ أَوۡلِيَآءُ بَعۡضٖۚ﴾ التوبة: ٧١
{Những người có đức tin nam và nữ họ là những người bảo hộ lẫn nhau.} Al-Tawbah: 71 (chương 9), ở chương khác:
﴿فَٱسۡتَجَابَ لَهُمۡ رَبُّهُمۡ أَنِّي لَآ أُضِيعُ عَمَلَ عَٰمِلٖ مِّنكُم مِّن ذَكَرٍ أَوۡ أُنثَىٰۖ بَعۡضُكُم مِّنۢ بَعۡضٖۖ﴾ آل عمران: ١٩٥
{Do đó, Thượng Đế của họ đáp lại lời cầu nguyện của họ, Ngài phán bảo: quả thật TA sẽ không làm mất đi công lao của bất cứ ai làm việc gì trong các ngươi cho dù nam hay nữ tất cả đều được thưởng bằng nhau.} Ali I’mraan: 195 (chương 3).
Rasul e nói:
((لاَ فَضْلَ لِعَرَبِىٍّ عَلَى أَعْجَمِىٍّ وَلاَ لِعَجَمِىٍّ عَلَى عَرَبِىٍّ وَلاَ لِأَبْيَضَ عَلَى أَسْوَدَ وَلاَ أَسْوَدَ عَلَى أَبْيَضَ إِلاَّ بِالتَّقْوَى، النَّاسُ مِنْ آدَمٍ وَآدَمٌ مِنْ تُرَابٍ))
“Không phải người Ả-rập tốt hơn người khác hay người nào đó tốt hơn người Ả-rập, cũng không phải người da trắng tốt hơn người da màu hay người da màu tốt hơn người da trắng. Chỉ người có lòng kính sợ Allah mới là người tốt nhất, loài người là con cháu của thủy tổ Adam và Adam được tạo ra từ đất.”([79]) Rasul e nói ở Hadith khác:
((إِنَّ آلَ بَنِيِّ فُلاَنٍ لَيْسُوا لِى بِأَوْلِيَاءَ إِنَّمَا وَلِيِّىَ اللهِ وَصَالِحُ الْمُؤْمِنِينَ))
“Quả thật dòng dõi nào đó là Waly (người bảo hộ) của Ta mà Waly của Ta chính là Allah và người sùng đạo trong số người có đức tin.”([80])
((إِذَا خَطَبَ إِلَيْكَ مَنْ تَرْضَوْنَ دِينَهُ وَخُلُقَهُ فَأَنْكِحُوهُ إِلاَّ تَفْعَلُوهُ تَكُنْ فِتْنَةٌ فِى الأَرْضِ وَفَسَادٌ عَرِيضٌ))
“Một khi ai đến dạm hỏi con gái các người và các người hài lòng về việc hành đạo và nhân cách của y thì hãy gả con gái cho y, bằng ngược lại các người ngăn cản sẽ gặp phải tai ương và biết bao xấu hổ khác trên đời.”([81])
Rasul e đã cưới bà Zaynab con gái ông Jahsh Al-Asadiyah từ Zaid bin Haarithah và cưới bà Faatimah con gái ông Qais Al-Qurashiyah từ Usaamah bin Zaid trong khi cả hai cha con đều là nô lệ.
Ông Bilaal bin Rabaah Al-Habashi người châu phi đã cưới chị (em) gái của ông Abdur Rahmaan bin A’wf Al-Zuhriyah người Ả-rập Quraish.
Còn ông Abu Huzaifah bin ﷻ’tbah bin Rabi-a’h người Ả-rập Quraish gả cháu gái con ông Al-Waleed cho Saalim một nô lệ nam của một phụ nữ người bản xứ Al-Ansaar.
Allah đã phán:
﴿وَٱلطَّيِّبَٰتُ لِلطَّيِّبِينَ وَٱلطَّيِّبُونَ لِلطَّيِّبَٰتِۚ﴾ (سورة النور : 26)
{Phụ nữ đoan chính chỉ xứng đôi với đàn ông đường đường chính chính và đàn đứng đắn chỉ xứng với phụ nữ tiết hạnh.} Al-Noor: 26 (Chương 24). Qua đây muốn khẳng định rằng trong hôn nhân Islam không qui định phải cưới người danh giá, giàu có gì cả mà chỉ yêu cầu đó là người tốt về mặt đạo là tiêu chuẩn đầu tiên và then chốt bởi Allah phán:
﴿وَأَنكِحُواْ ٱلۡأَيَٰمَىٰ مِنكُمۡ وَٱلصَّٰلِحِينَ مِنۡ عِبَادِكُمۡ وَإِمَآئِكُمۡۚ إِن يَكُونُواْ فُقَرَآءَ يُغۡنِهِمُ ٱللَّهُ مِن فَضۡلِهِۦۗ وَٱللَّهُ وَٰسِعٌ عَلِيمٞ ٣٢﴾ (سورة النور: 32)
{Các ngươi hãy cưới các cô phụ nữ độc thân làm vợ hoặc lựa chọn số người ngoan đạo trong số nam và nữ nô lệ mà cưới gã. Nếu họ nghèo khó (thì sau hôn nhân) Allah sẽ ban cho họ giàu có bằng ân sủng của Ngài, Allah rất rộng lượng am tường thấu đáo.} Al-Noor: 32 (chương 24). Trong câu Kinh Allah hạ lệnh cưới phụ nữ độc thân không phân biệt giàu hay nghèo, quí tộc hay thường dân miễn họ là người Muslim là được.
Ngoài ra giáo lý Islam còn chú trọng đến hôn nhân gia đình nên đã hạ lệnh cho những ai có khả năng tiền tài hay thể lực thì lập gia đình như Rasul nói:
((يَا مَعْشَرَ الشَّبَابِ مَنِ اسْتَطَاعَ مِنْكُمُ الْبَاءَةَ فَلْيَتَزَوَّجْ، فَإِنَّهُ أَغَضُّ لِلْبَصَرِ، وَأَحْصَنُ لِلْفَرْجِ وَمَنْ لَمْ يَسْتَطِعْ فَعَلَيْهِ بِالصَّوْمِ فَإِنَّهُ لَهُ وِجَاءٌ))
“Này các thanh niên, ai có khả năng cưới vợ thì hãy cưới vợ đi, đó là điều bảo vệ mắt không nhìn bậy và không quan hệ bừa bãi. Bằng không có khả năng thì các ngươi hãy nhịn chay đi, bởi nhịn chay là vật chắn bảo vệ y.”([82])
Đối với người bảo hộ có quyền cưới gả con, em, chị gái thì hãy cẩn trọng và hết lòng kính sợ Allah mà cưới gả đàng hoàng bởi họ phải chịu trách nhiệm trước Allah nếu có dùng quyền mà lấn áp phụ nữ, che khen giàu nghèo hoặc khinh khi ai đó. Mỗi người sẽ phải gánh tội nếu ai dám cấm cản hoặc cố tình trì hoãn hôn nhân của con, em, chị gái mình như Allah phán:
﴿فَوَرَبِّكَ لَنَسَۡٔلَنَّهُمۡ أَجۡمَعِينَ ٩٢ عَمَّا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ ٩٣﴾ الحجر: ٩٢ - ٩٣
{TA (Allah) thề bởi Thượng Đế Ngươi (Muhammad) chắc chắn TA sẽ điều tra tất cả mọi người * Về tất cả mọi điều mà họ đã làm (ở trần gian).} Al-Hijr: 92 – 93 (chương 15), ở chương khác:
﴿وَلِلَّهِ مَا فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَمَا فِي ٱلۡأَرۡضِ لِيَجۡزِيَ ٱلَّذِينَ أَسَٰٓـُٔواْ بِمَا عَمِلُواْ وَيَجۡزِيَ ٱلَّذِينَ أَحۡسَنُواْ بِٱلۡحُسۡنَى ٣١﴾ النجم: ٣١
{Và mọi vật trong các tầng trời và mọi vật trong trái đất là của Allah, nhằm trừng trị những ai đã phạm tội về những điều họ đã phạm và để thưởng cho những ai làm tốt nhất với (phần thưởng) tốt nhất (đó là thiên đàng).} Al-Najm: 31 (chương 53).
Cầu xin Allah ban kiến thức cho toàn thể cộng đồng Muslim tránh xa mọi điều xấu từ dục vọng và cám dỗ của Shaytaan. Khẩn cầu Ngài che chở họ thoát khỏi mọi nguy hiểm đang rình rập người nhẹ lòng. Đồng thời khẩn cầu Ngài chấn chỉnh đội ngũ lãnh đạo Muslim luôn làm theo Qur’an và Sunnah. Quả thật Allah luôn có khả năng trên tất cả mọi việc. cầu xin bình an và phúc lành cho Người, cho gia quyến cùng tất cả bằng hữu của Người.
([1]) Trích từ Majmu’ Fataawa wa Maqalat Mutanawwi-a’h (8/28 – 33).
([2]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Al-Janaa-iz, chương cấm chọn lấy mồ mã làm Masjid, số (1330); và Muslim ghi ở phần Masjid và các địa điểm Salah, chương cấm xây dựng Masjid trên mồ mã, số (529).
([3]) Hadith do Muslim ghi ở phần Masjid và các địa điểm Salah, chương cấm xây dựng Masjid trên mồ mã, số (532).
([4]) Hadith do Muslim ghi ở phần mai táng, chương cấm viết và cấm xây mộ, số (970).
([5]) Hadith do Ahmad ghi (6036), Abu Dawood ghi ở phần thề thốt và nguyện cầu, chương cấm thề thốt bằng danh nghĩa ông bà, số (3251) và Al-Tirmizhi ghi ở phần thề thốt và nguyện cầu, chương cấm thề thốt ngoài Allah, số (1535).
([6]) Hadith do Ahmad ghi (22471), Abu Dawood ghi ở phần thề thốt và nguyện cầu, chương cấm thề thốt bằng uy tín, số (3253).
([7]) Hadith do Ahmad ghi (224736), Abu Dawood ghi ở phần văn hóa, chương bản thân tôi dơ bẩn, số (4980).
([8]) Hadith do Ahmad ghi (16951).
([9]) Hadith do Ahmad ghi (16969).
([10]) Hadith do Ahmad ghi (3604), Abu Dawood ghi ở phần y tế, chương đeo thần chú, số (3530).
([11]) Hadith do Abu Dawood ghi ở phần y học, chương liên quan đến thần chú, số (3886).
([12]) Hadith do Ahmad ghi (16694), Abu Dawood ghi ở phần Sunnah, chương bám lấy Sunnah, số (4607) và Ibnu Maajah ghi ở lời mở đầu, chương tránh xa điều Bid-a’ah và kháng cự Sunnah, số (46).
([13]) Hadith do Al-Bukhary ghi lại ở phần hòa giải, chương khi hòa giải bằng sự bất công thì sự hòa giải đó không được chấp nhận, Hadith số 2697 và Muslim ghi lại ở phần phân xử, chương hủy bỏ những giáo lý vô hiệu và đối lại những ai tạo ra cái tân, Hadith số 17 và 1718.
([14]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần phân xử, chương xóa bỏ các giáo lý bại hoại, số (1718).
([15]) Hadith do Muslim ghi ở phần thứ sáu, chương giảm nhẹ Salah và thuyết giảng, số (867).
([16]) Majmu’ Al-Fatawa wa Maqalat Mutanawwi-a’h (8/8 – 27)
([17]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở mục kể về các vị Nabi, chương câu Kinh: {Hãy nhớ về câu chuyện của Mar-yam…} số (3443).
([18]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở mục kể về các vị Nabi, chương câu Kinh: {Hãy nhớ về câu chuyện của Mar-yam…} số (3442).
([19]) Hadith do Ahmad ghi (2188).
([20]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tayammum, chương về câu Kinh: {Một khi các ngươi không tìm được nước thì hãy Tayammum.} số (335).
([21]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần bám chặt lấy Qur’an và Sunnah, chương bắt chước theo Sunnah của Rasul e, số (7180).
([22]) Hadith do Ahmad ghi (22428); Al-Tirmizhi ghi ở phần Imam, chương việc bỏ hành lễ Salah, số (1621); Al-Nasaa-y ghi ở phần Salah, chương giáo lý bỏ hành lễ Salah, số (463); và Ibnu Maajah ghi ở phần hành lễ Salah và Sunnah liên quan, chương việc bỏ lễ Salah, số (1079).
([23]) Hadith do Muslim ghi ở phần Imam, chương ai bỏ lễ Salah bị gọi là Kafir, số (82).
([24]) Hadith do Al-Tirmizhi ghi ở phần Imam, chương việc bỏ bê Salah, số (2622).
([25]) Hadith do Al-Bukhary ghi lại.
([26]) Hadith do Muslim ghi ở phần thứ sáu, chương giảm nhẹ Salah và thuyết giảng, số (867).
([27]) Hadith do Al-Bukhary ghi lại ở phần hòa giải, chương khi hòa giải bằng sự bất công thì sự hòa giải đó không được chấp nhận, Hadith số 2697 và Muslim ghi lại ở phần phân xử, chương hủy bỏ những giáo lý vô hiệu và đối lại những ai tạo ra cái tân, Hadith số 17 và 1718.
([28]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần phân xử, chương xóa bỏ các giáo lý bại hoại, số (1718).
([29]) Hadith do Ahmad ghi (16694), Abu Dawood ghi ở phần Sunnah, chương bám lấy Sunnah, số (4607) và Ibnu Maajah ghi ở lời mở đầu, chương tránh xa điều Bid-a’ah và kháng cự Sunnah, số (46).
([30]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần y học, chương lời nói may rủi, số (5757); và Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (2220).
([31]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần y học, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (5717); và Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (2222).
([32]) Hadith do Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (2220).
([33]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần y học, chương không có lời nói may rủi, số (5771); và Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (2221).
([34]) Hadith do Al-Bukhary ghi lại ở phần hòa giải, chương khi hòa giải bằng sự bất công thì sự hòa giải đó không được chấp nhận, Hadith số 2697 và Muslim ghi lại ở phần phân xử, chương hủy bỏ những giáo lý vô hiệu và đối lại những ai tạo ra cái tân, Hadith số 17 và 1718.
([35]) Hadith do Muslim ghi ở phần thứ sáu, chương giảm nhẹ Salah và thuyết giảng, số (867).
([36]) Hadith do Ahmad ghi (16694), Abu Dawud ghi lại ở phần Sunnah, chương bám lấy Sunnah, Hadith số 4607, Al-Darimy ghi lại ở phần lời mở đầu, chương noi theo Sunnah, Hadith số 96 và Al-Tirmizy ghi lại ở phần kiến thức, chương làm theo Sunnah và tránh xa cái tân, Hadith số 2676.
([37]) Trích từ Majmu’ Fataawa và Maqalat Mutanawwi-a’h (8/120 – 143)
([38]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Azaan, chương Imam xoay mặt về mọi người sau chào Salam, số (846); và Muslim ghi ở phần đức tin Imam, chương giải thích việc phủ nhận đức tin Imam đối với ai nói: trời ban mưa là do tinh tú, số (71).
([39]) Hadith do Ahmad ghi (23250); Muslim ghi ở phần Al-Sahu, chương nói trong Salah, số (1218).
([40]) Hadith do Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương cấm bói toán và tìm đến thầy bói, số (2230).
([41]) Hadith do Ahmad ghi (9035); Al-Tirmizhi ghi ở phần sạch sẽ, chương không nên gần gủi vợ lúc kinh kỳ, số (135); và Ibnu Maajah ghi ở phần sạch sẽ và Sunnah về sạch sẽ, chương cấm gần gủi vợ lúc chu kỳ, số (639).
([42]) Hadith do Ahmad ghi (3679); Abu Dawood ghi ở phần y học, chương đón may rủi, số (3910) và Ibnu Maajah ghi ở phần y học, chương người chỉ thích điềm tốt, số (3538).
([43]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tafseer Qur’an, chương về câu Kinh: {Nếu có tên nào lén nghe trộm thì sẽ bị một chùm lửa ngọn đỏ rực đánh đuổi.} Al- Nahl: 16 (chương 16).
([44]) Hadith do Muslim ghi lại phần Iman, chương Iman, Islam, Ehsaan và bắt buột tin tưởng vào định mệnh là do Allah Đấng Vinh Quang và Tối Cao quyết định, Hadith số 1 và 8.
([45]) Trích từ Musnad Al-Bazzaar (9/52).
([46]) Ý nghĩa: “Lạy Thượng Đế, không ai mang đến điều tốt lành ngoại trừ Ngài; không ai cứu khỏi nạn kiếp ngoài Ngài và không có sự chuyển động hay quyền lực nào phát huy ngoài lệnh Ngài.” Hadith do Abu Dawood ghi ở phần y học, chương về may rủi, số (3919).
([47]) Ý nghĩa: “Lạy Thượng Đế, không có tốt đẹp ngoại trừ Ngài cho tốt đẹp, không có may rủi trừ phi Ngài cho may rủi và không có Thượng Đế nào xứng đáng thờ phượng ngoài Ngài.” Hadith do Ahmad ghi (7005).
([48]) Hadith do Muslim ghi ở phần định mệnh, chương cố gắng tạo lý do không bi quan, số (2664).
([49]) Ý nghĩa: “Tất cả chúng ta có được là do Allah ban cho, nay đã trở về với Ngài. Những gì Allah đã ấn định nay đã thành.”
([50]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở mục thánh chiến, chương chiến tranh dưới chỉ huy của lãnh đạo, số (2957); và Muslim ghi ở phần quản lý, chương bắt buộc tuân lệnh lãnh đạo theo khuôn khổ Islam, số (1835).
([51]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần bám chặt lấy Qur’an và Sunnah, chương bắt chước theo Sunnah của Rasul e, số (7180).
([52]) Hadith do Ahmad ghi (16722), Abu Dawood ghi ở phần Sunnah, chương bám lấy Sunnah, số (4604).
([53]) Hadith do Al-Bukhary ghi lại ở phần Iman, chương nếu họ đã sám hối và dâng lễ Salah, Hadith số 25 và Muslim ghi lại ở phần Iman, chương lệnh đấu tranh với mọi người đến khi nói câu La il la ha il lol loh và Muhammad là Rasul của Allah và dâng lễ Salah, Hadith số 22 và 36.
([54]) Hadith do Ahmad ghi (17517).
([55]) Hadith do Ahmad ghi (26547).
([56]) Hadith do Ahmad ghi (3111).
([57]) Hadith do Muslim ghi ở phần Salah, chương việc phụ nữ rời khỏi nhà đến các Masjid, số (442).
([58]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần giết và săn thú, chương ném sỏi, số (5479); Muslim ghi ở phần giết và săn thú, chương những điều được phép sử dụng lúc săn, số (1954).
([59]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần thánh chiến, chương danh từ ngựa và lừa, số (2856); Muslim ghi ở phần đức tin, chương bằng chứng ai chết trên thuyết Tawhid (độc tôn) sẽ được vào thiên đàng, số (30).
([60]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần phân tích Qur’an, chương câu Kinh: {Và trong nhân loại, có những kẻ đã dựng lên những thần linh ngang hàng cùng với Allah.}, số (4497).
([61]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần xuất Zakat, chương lấy tiền bố thí của người giàu phát lại cho người nghèo, số (1458); Muslim ghi ở phần đức tin, chương mời gọi đến với lời tuyên thệ và biểu hiệu Islam, số (19).
([62]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần xuất Zakat, chương lấy tiền bố thí của người giàu phát lại cho người nghèo, số (1458); Muslim ghi ở phần đức tin, chương mời gọi đến với lời tuyên thệ và biểu hiệu Islam, số (19).
([63]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tawhid, chương nói về lời cầu xin của Nabi e, số (7372).
([64]) Hadith do Muslim ghi ở phần đức tin, chương lệnh được phép chiến đấu với thiên hạ đến khi họ chấp nhận chứng nhận La i la ha il lol loh, số (23).
([65]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần kiến thức, chương cố trao dồi Hadith, số (99).
([66]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần cầu xin, chương tất cả Nabi lời cầu xin đều được chấp nhận, số (6304); và Muslim ghi ở phần Imam, chương Nabi e để dành lời cầu xin, số (199).
([67]) Hadith do Muslim ghi ở phần kiến thức, chương diệt vong rồi những kẻ khuếch đại, số (2670).
([68]) Ý nghĩa: “Lạy Allah! xin hãy ban sự bình an và phúc lành cho Nabi Muhammad và dòng tộc của Người giống như Ngài đã ban bình an và phúc lành cho Nabi Ibrahim và dòng tộc của Người. Quả thực, Ngài là Đấng đáng được ca tụng, Đấng Huy Hoàng.” Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tafseer Qur’an, chương {Quả thật, Allah và Thiên Thần của Ngài cầu xin bình an và phúc lành cho Nabi.}, số (4797); và Muslim ghi ở phần Salah, chương Salah cho Nabi e, số (406).
([69]) Ý nghĩa: “Thưa Allah! Cầu xin hãy ban sự bình an và phúc lành cho Nabi Muhammad, cho các phu nhân của Người và cho con cháu của Người giống như Ngài đã ban cho dòng tộc của Nabi Ibrahim. Quả thực, Ngài là Đấng đáng được ca tụng, Đấng Huy Hoàng.” Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần các Hadith nói về Nabi, chương câu Kinh: {Và Allah đã chọn Ibrahim làm thân tín.}, số (3369); và Muslim ghi ở phần Salah, chương Salah cho Nabi e, số (407).
([70]) Ý nghĩa: “Thưa Allah! Cầu xin hãy ban sự bình an và phúc lành cho Nabi Muhammad và dòng tộc của Người giống như Ngài đã ban cho Ibrahim. Quả thực, Ngài là Đấng đáng được ca tụng, Đấng Huy Hoàng.” Hadith do Muslim ghi ở phần Salah, chương Salah cho Nabi e, số (405).
([71]) Hadith do Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương cấm bói toán và tìm đến thầy bói, số (2230).
([72]) Hadith do Ahmad ghi (9035); Al-Tirmizhi ghi ở phần sạch sẽ, chương không nên gần gủi vợ lúc kinh kỳ, số (135); và Ibnu Maajah ghi ở phần sạch sẽ và Sunnah về sạch sẽ, chương cấm gần gủi vợ lúc chu kỳ, số (639).
([73]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tafseer Qur’an, chương {Mọi chìa khóa (hay kho tàn) của cõi vô hình huyền bí đều nằm nơi Ngài (Allah), chỉ riêng Ngài mới biết rõ chúng.} số (4627) và Muslim ghi ở phần Imam, chương giải thích Imam, Islam và Ehsaan, số (10).
([74]) Hadith do Muslim ghi ở phần hiếu thảo và kết nối thân tộc, chương cấm bất công và khinh thường người Muslim, số (2564).
([75]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Imam, chương ân phước của người cẩn trọng về hành đạo, số (52) và Muslim ghi ở phần hợp tác, chương lấy điều Halal và từ bỏ điều nghi kỵ, số (1599).
([76]) Hadith do Muslim ghi ở phần tụng niệm và cầu xin, chương ân phước cùng xướng đọc Qur’an, số (2699).
([77]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần di chúc, chương phụ nữ và con có được xem là người thân không, số (2753) và Muslim ghi ở phần Imam, chương {Và (hỡi Muhammad) hãy khuyến cáo thân tộc gần gủi của Ngươi.}, số (206).
([78]) Hadith do Ahmad ghi (2664) và Al-Tirmizhi ghi ở phần miêu tả về ngày tận thế và nô lệ, chương trong đó, số (2516).
([79]) Hadith do Ahmad ghi (22978).
([80]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần văn hóa, số (5990) và Muslim ghi ở phần Imam, chương quan hệ với người có đức tin và đoạn tuyệt với người khác họ, số 215).
([81]) Hadith do Al-Tỉrmizhi ghi ở phần hôn nhân, chương liên quan đến người dạm hỏi hài lòng về mặt đạo, số (1084) và Ibnu Maajah ghi ở phần hôn nhân, chương cân xứng, số (1967).
([82]) Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần nhịn chay, chương nhịn chay dành cho ai sợ bản thân phạm Zina, số (1905) và Muslim ghi ở phần hôn nhân, chương khuyến khích kết hôn đối với ai có khả năng, số (1400).