Hồng Phúc Của Hajj & Mười Ngày Đầu Của Tháng Zhu-Hijjah
Các bản dịch của bài viết
Các danh mục
Full Description
Hồng Phúc Của Hajj & Mười Ngày Đầu Của Tháng Zhul-Hijjah
] Tiếng Việt – Vietnamese – فيتنامية [
Sheikh
Tiến sĩ/ Abdul-Muhsin Bin Muhammad Al-Qasim
Dịch thuật: Abu Zaytune Usman Ibrahim
Kiểm duyệt: Abu Hisaan Ibnu Ysa
2012 - 1433
فضل الحج وأيام العشر
« باللغة الفيتنامية »
لفضيلة الشيخ: د. عبد المحسن بن محمد القاسم
ترجمة: أبو زيتون عثمان إبراهيم
مراجعة: أبو حسان محمد زين بن عيسى
2012 - 1433
!
Nhân Danh Allah
Đấng Rất Mực Độ Lượng
Đấng Rất Mực Khoan Dung
Đây là bài Khutbah do Sheikh, tiến sĩ Abdul-Muhsin Bin Muhammad Al-Qasim – cầu xin Allah phù hộ và che chở cho ông – thuyết giảng vào ngày thứ sáu (28/11/1431 H) với chủ đề: “Hồng phúc của Hajj và mười ngày đầu của tháng Zhul-Hajjah”. Trong bài thuyết giảng này, ông đã nói về việc hành hương Hajj đến ngôi nhà của Allah, Alharam, và các hồng phúc của nó. Ông đã nêu ra giá trị và ân phúc các việc làm của Hajj từ Qur’an và Sunnah (Sự giáo huấn của Nabi Muhammad e), đồng thời khuyến khích các tín đồ tận dụng cơ hội của những mười ngày đầu tháng Zhul-Hijjah bởi đó là những ngày hồng phúc nhất trong những ngày của năm.
Khutbah đầu
إِنَّ الحَمْدُ للهِ نَحْمَدُهُ وَنَسْتَعِيْنُهُ وَنَسْتَغْفِرُهُ ، وَنَعُوْذُ بِاللهِ مِنْ شُرُوْرِ أَنْفُسِنَا وَمِنْ سَيِّئَاتِ أَعْمَالِنَا ، مَنْ يَهْدِ اللهُ فَلاَ مُضِلَّ لَهُ ، وَ مَنْ يُضْلِلْ فَلاَ هَادِيَ لَهُ. وَأَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَحْدَهُ لَا شَرِيكَ لَهُ وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ. وَصَلَّى اللهُ وَسَلَّمَ عَلىَ نَبِيِّنَا مُحَمْدٍ وَعَلىَ آلِهِ وَصَحْبِهِ وَسَلَّمَ.
Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng lên Allah, bầy tồi xin tạ ơn Ngài, bầy tôi xin Ngài phù hộ và tha thứ cho bầy tôi. Bầy tôi xin Allah cứu rỗi bầy tôi thoát khỏi những điều xấu từ bản thân bầy tôi và hành vi của bầy tôi, người nào được Allah hướng dẫn chắc chắn sẽ không bị lầm lạc và người nào bị Ngài cho lầm lạc thì chắc chắn sẽ không tìm được sự hướng dẫn. Và tôi chứng nhận không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Allah, chỉ có Ngài là Thượng Đế duy nhất không có đối tác cùng Ngài, và tôi chứng nhận Muhammad e là người bề tôi và là vị Thiên sứ của Allah.
Cầu xin Allah ban nhiều bằng an và phúc lành cho Người e, gia quyến của Người và các bạn đạo của Người.
Hỡi những người bề tôi của Allah!
Hãy kính sợ Allah với lẽ mà Ngài phải đáng được kính sợ, và hãy nắm chặt sợi dây của Islam...
Hỡi những tín đồ Muslim!
Mùa tốt lành và ân phúc vẫn cứ tiếp tục xoay vòng theo thời gian và không gian, một nơi thiêng liêng vẫn cứ còn mãi hồng phúc và giá trị theo tháng ngày, những trái tim của những tín đồ Muslim vẫn luôn hướng đến nó nhiều lần trong ngày.
﴿ فَوَلِّ وَجۡهَكَ شَطۡرَ ٱلۡمَسۡجِدِ ٱلۡحَرَامِۚ ﴾ [سورة البقرة: 144]
{Do đó, hãy quay mặt của Ngươi (Muhammad) về hướng Thánh đường Alharam!} (Chương 2 – Albaqarah, câu 144).
Những đôi mắt đang tìm kiếm những ân phúc của nơi đó qua các bài học và bài giảng mới. Allah, Đấng Tối Cao phán:
﴿إِنَّ أَوَّلَ بَيۡتٖ وُضِعَ لِلنَّاسِ لَلَّذِي بِبَكَّةَ مُبَارَكٗا وَهُدٗى لِّلۡعَٰلَمِينَ ٩٦ فِيهِ ءَايَٰتُۢ بَيِّنَٰتٞ مَّقَامُ إِبۡرَٰهِيمَۖ وَمَن دَخَلَهُۥ كَانَ ءَامِنٗاۗ ﴾ [سورة آل عمران: 96، 97]
{Quả thật, ngôi đền đầu tiên được chỉ định cho nhân loại (để thờ phượng Allah) là cái tại Bakkah (Makkah), đó là ân phúc và chỉ hướng cho toàn nhân loại. Nơi đó có những Dấu hiệu rõ ràng: Chỗ đứng (Maqam) của Ibrahim, và ai đi vào đó sẽ được an toàn.} (Chương 3 – Ali-Imran, câu 96, 97).
﴿ لِّيَشۡهَدُواْ مَنَٰفِعَ لَهُمۡ وَيَذۡكُرُواْ ٱسۡمَ ٱللَّهِ فِيٓ أَيَّامٖ مَّعۡلُومَٰتٍ ﴾ [سورة الحج: 28]
{Để cho họ chứng kiến những lợi lộc được ban cấp cho họ và để họ tụng niệm tên của Allah trong một số ngày ấn định} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 28).
﴿ أَوَ لَمۡ نُمَكِّن لَّهُمۡ حَرَمًا ءَامِنٗا يُجۡبَىٰٓ إِلَيۡهِ ثَمَرَٰتُ كُلِّ شَيۡءٖ رِّزۡقٗا مِّن لَّدُنَّا وَلَٰكِنَّ أَكۡثَرَهُمۡ لَا يَعۡلَمُونَ ٥٧ ﴾ [سورة القصص: 57]
{Há TA (Allah) đã không thiết lập cho chúng một thánh địa an toàn, mà đủ loại hoa quả được mang đến cho nó như là bổng lộc của TA hay sao? Nhưng đa số bọn chúng khống biết.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 57).
Các lữ khách hành hương đến viếng ngôi nhà cổ của Allah vì mong muốn và hy vọng lời hứa của Allah, vì để phục tùng Ngài trong việc thờ phượng, để hoàn thành bổn phận trụ cột của tôn giáo, bởi lẽ ngôi nhà của Allah – Alharam – là ngôi nhà sẽ xóa sạch các tội lỗi và những sai phạm. Nabi e nói với Amru bin Al-Ass lúc ông vào Islam:
« أَمَا عَلِمْتَ أَنَّ الإِسْلاَمَ يَهْدِمُ مَا كَانَ قَبْلَهُ وَأَنَّ الْهِجْرَةَ تَهْدِمُ مَا كَانَ قَبْلَهَا وَأَنَّ الْحَجَّ يَهْدِمُ مَا كَانَ قَبْلَهُ » رواه مسلم.
“Chẳng lẽ ngươi không biết rằng Islam sẽ xóa hết những gì trước nó, rằng Hijrah (cuộc đời cư rời bỏ Makkah để đến Madinah) sẽ xóa hết những gì trước nó và rằng cuộc hành hương Hajj sẽ xóa hết những gì trước nó.” (Muslim).
Trong ngôi nhà đó, có sự tẩy rửa mọi lỗi lầm và có sự ban thưởng ân phước to lớn đó là được thưởng Thiên Đàng hạnh phúc và vĩnh cữu. Nabi e nói:
«مَنْ حَجَّ فَلَمْ يَرْفُثْ وَلَمْ يَفْسُقْ رَجَعَ مِنْ ذُنُوْبِهِ كَيَوْمِ وَلَدَتْ أُمِّهِ» (متفق عليه)
“Ai làm Hajj mà không dâm dục, không làm điều tội lỗi thì sẽ trở lại y như thuở mới lọt lòng mẹ” (Albukhari, Muslim).
« الْحَجُّ الْمَبْرُورُ لَيْسَ لَهُ جَزَاءٌ إِلاَّ الْجَنَّةُ » رواه مسلم.
“Cuộc hành hương Hajj hoàn thành tốt đẹp khi được công nhận thì phần ân thưởng không gì hơn là Thiên đàng” (Muslim).
Trong cuộc hành hương Hajj mang lại lợi ích và các bài học giá trị:
Biểu hiệu của cuộc hành hương Hajj là Tawhid (độc tôn hóa) Allah trong việc thờ phượng. Mở đầu cho nghi thức Hajj là lời Talbiyah trong đó chỉ rõ tinh thần Tawhid:
Khi nói “لَبَّيْكَ اللهم لَبَّيْكَ” “Labbaykollo-humma labbayka” – “Xin vâng lệnh Ngài, ôi Thượng Đế của chúng con”. Đó là câu đáp lại cho mệnh lệnh của Allah, và mệnh lệnh vĩ đại nhất đó là mệnh lệnh của Allah. Jabir t nói: Nabi e đã định tâm vào Hajj bằng Tawhid. (Muslim). Còn câu “لَبَّيْكَ لاَ شَرِيكَ لَكَ لَبَّيْكَ” “Labbayka la shari-ka laka labbayka” – “Vâng lệnh Ngài, chúng con sẽ không làm điều Shirk”. Đây là sự xác nhận cho tinh thần Tawhid rằng sẽ không gán ghép cùng với Ngài một thần linh nào khác (bởi lẽ không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Allah). Và đây cũng là giáo lý căn bản của tôn giáo Islam và là yếu tố quan trọng để các việc làm có giá trị và được công nhận nơi Allah.
Và câu “إِنَّ الْحَمْدَ وَالنِّعْمَةَ لَكَ” “Innal-hamda wal-ni’mata laka” - “quả thật, mọi sự ca ngợi và tán dương cũng như mọi ân huệ và hồng phúc đều thuộc về Ngài” là sự khẳng định ân huệ và hồng phúc của Allah và Ngài đáng được mọi tạo vật ca ngợi và tán dương, và mọi hành động thờ phượng chỉ được phép hướng về Ngài duy nhất. Và người nào vâng lệnh Ngài đến hành hương tại ngôi nhà của Allah – Alharam thì người đó coi như đã giao ước với Thượng Đế của y rằng y chỉ tôn thờ Ngài duy nhất ở mọi lúc và mọi nơi.
Và việc ăn mặc hai mảnh vải choàng vào người trong cuộc hành hương thể hiện sự khiêm nhường, từ bỏ sự tự cao tự đại, tất cả các bề tôi đều như nhau trước Allah, tất cả đều nhỏ bé và thấp hèn trước Đấng Vĩ Đại và Toàn Năng.
Và khi nhìn thấy ngôi đền Ka’bah thiêng liêng, chúng ta sẽ chứng kiến các hành động thành tâm vì Allah, hai vị Nabi cao quý của Ngài: vị Khaleel (vị Nabi được ân sủng nhất) Nabi Ibrahim u và con trai của Người Nabi Isma-il u đã cùng dựng lên nền móng đầu tiên của ngôi đền thiêng liêng, và họ đã cầu xin Allah chấp nhận việc làm này của họ:
﴿وَإِذۡ يَرۡفَعُ إِبۡرَٰهِۧمُ ٱلۡقَوَاعِدَ مِنَ ٱلۡبَيۡتِ وَإِسۡمَٰعِيلُ رَبَّنَا تَقَبَّلۡ مِنَّآۖ إِنَّكَ أَنتَ ٱلسَّمِيعُ ٱلۡعَلِيمُ ١٢٧﴾ [سورة البقرة: 127]
{Và (hãy nhớ lại) khi Ibrahim và Isma-il xây móng của Ngôi đền và cầu nguyện thưa: “Lạy Thượng Đế của chúng con! Xin Ngài chấp nhận việc làm này từ chúng con, bởi vì Ngài là Đấng Hằng nghe và Hằng biết.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 124 – 132).
Và bắt buộc đối với người làm Hajj phải luôn thành tâm trong việc thực hiện cuộc hành hương Hajj của mình cũng như các việc làm khác, họ phải hướng về Allah một cách trọn vẹn, chớ đừng hướng cái tâm của mình đến với một ai hay một thứ gì khác ngoài Allah mà hãy tận tâm vì Ngài, hãy tìm kiếm sự hài lòng của Ngài và hy vọng sự tha thứ tội lỗi nơi Ngài. Allah, Đấng Tối Cao phán:
﴿ وَأَتِمُّواْ ٱلۡحَجَّ وَٱلۡعُمۡرَةَ لِلَّهِۚ ﴾ [سورة البقرة: 196]
{Các ngươi hãy hoàn thành Hajj và Umrah vì Allah.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 196).
Và nghi thức Tawaf (đi vòng quanh ngôi đền Ka’bah) đã đưa trái tim của người bề tôi đến gần với Allah trong ngôi nhà thanh bình của Ngài, và trên trái đất này không có một nơi nào có thể gần với Allah hơn ngôi đền Ka’bah thiêng liêng. Dó đó, Allah đã phán bảo:
﴿ وَلۡيَطَّوَّفُواْ بِٱلۡبَيۡتِ ٱلۡعَتِيقِ ٢٩ ﴾ [سورة الحج: 29]
{Và hãy để họ đi vòng quanh ngôi đền lâu đời.} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 29).
Và việc hôn cục đá đen biểu hiện sự tuân thủ nguyên tắc và giáo luật được Allah qui định ngay cả khi ý nghĩa và giá trị của các nguyên tắc, các giáo điều chưa được phơi bày. Bởi lẽ đó mà Umar bin Khattab t đã nói với cục đá đen khi ông hôn lên nó:
« وَاللهِ إِنِّى أَعْلَمُ أَنَّكَ حَجَرٌ لاَ تَضُرُّ وَلاَ تَنْفَعُ وَلَوْلاَ أَنِّى رَأَيْتُ رَسُولَ اللهِ -صلى الله عليه وسلم- يُقَبِّلُكَ مَا قَبَّلْتُكَ » متفق عليه.
“Thề bởi Allah, quả thật ta biết rõ ngươi chỉ là một cục đá vô tri vô giác, chẳng mang lại phúc lợi cũng chẳng gây hại, nếu như ta không nhìn thấy Thiên sứ của Allah e hôn lên ngươi thì chắc chắc ta sẽ không bao giờ hôn ngươi.” (Albukhari, Muslim).
Và trong các nghi thức Hajj cho các tín đồ một bài học về sự tuân thủ và noi theo đường lối của Thiên sứ e. Người e nói:
« خُذُوْا عَنِّيْ مَنَاسِكَكُمْ » (رواه مسلم)
“Các người hãy làm theo cách thức thực hiện Hajj của ta” (Muslim).
Do đó, mỗi tín đồ Muslim phải noi theo đường lối của Nabi, hãy tuân thủ theo mọi sự chỉ dạy và hướng dẫn của Người, chớ đừng lơ là và hời hợt trước sự dạy bảo của Người trong Hajj cũng như trong các việc làm khác. Bởi Allah, Đấng Tối Cao đã phán bảo:
﴿ وَمَآ ءَاتَىٰكُمُ ٱلرَّسُولُ فَخُذُوهُ وَمَا نَهَىٰكُمۡ عَنۡهُ فَٱنتَهُواْۚ ﴾ [سورة الحشر : 7 ]
{Và những gì mà Thiên sứ mang đến cho các ngươi thì các ngươi hãy nhận lấy nó, và những gì mà y ngăn cấm các ngươi thì các ngươi hãy kết thúc nó ngay} (Chương 59 – Al-Hashr, câu 7).
Và ngày Arafah là một ngày ân phúc, đó là ngày hội tụ và triệu tập các tín đồ từ khắp mọi miền trên thế giới tại một nơi duy nhất, ngày của niềm hy vọng và kính sợ, ngày của sự khiêm nhường và khúm núm trước Allah, đó là một ngày thiêng liêng và trọng đại đối với toàn thể các tín đồ Muslim. Sheikh Islam – Ibnu Taymiyah ﷺ - nói: “Những người hành hương sống trong ngày Arafah với con tim đầy đức tin Iman, tình yêu, ánh sáng và ân phúc, những điều mà không thể dùng lời lẽ để diễn đạt hết về nó.”.
Và Du-a là một việc làm trọng đại cho mỗi người Muslim, những tín đồ Muslim đi thực hiện Hajj hướng về Thượng Đế của họ, họ khấn vái cầu nguyện mong mỏi sự phù hộ và che chở của Ngài, họ cầu xin Ngài ban cho họ nhiều phúc lành và tránh xa điều dữ, họ cầu xin và mong mỏi nơi Ngài mà không nãn lòng, bởi họ luôn tin tưởng rằng Ngài sẽ đáp lại lời Du-a của họ. Và thời điểm Du-a tốt nhất đó là Du-a vào ngày Arafah. Ibnu Abdul-Barr ﷺ nói: “Lời Du-a trong ngày Arafah tất cả hầu như đều sẽ được đáp lại”.
Lời nói tốt nhất trong các lời mà người thực hiện Hajj nên nói vào ngày hôm đó là lời nói Taqwa với sự hiểu biết ý nghĩa của nó và thực hiện theo đúng ý nghĩa của nó. Nabi e nói:
« خَيْرُ الدُّعَاءِ دُعَاءُ يَوْمِ عَرَفَةَ وَخَيْرُ مَا قُلْتُ أَنَا وَالنَّبِيُّونَ مِنْ قَبْلِى لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ وَحْدَهُ لاَ شَرِيكَ لَهُ لَهُ الْمُلْكُ وَلَهُ الْحَمْدُ وَهُوَ عَلَى كُلِّ شَىْءٍ قَدِيرٌ » رواه الترمذي.
“Du-a tốt nhất là Du-a vào ngày Arafah, và lời nói tốt nhất mà Ta và các vị Nabi trước Ta thường nói đó là (La ila ha illollohu wahdahu la shari-ka lahu, lahul mulku wa lahul hamdu wa huwa ala kulli shay-in qadir – Không có Thượng Đế đích thực nào ngoài Allah, chỉ có một mình Ngài duy nhất là Thượng Đế, không có đối tác cùng Ngài, mọi vương quyền và sự ca ngợi tán dương đều thuộc về Ngài, và Ngài là Đấng có quyền năng trên mọi thứ).” (Tirmizhi).
« مَا مِنْ يَوْمٍ أَكْثَرَ مِنْ أَنْ يُعْتِقَ اللهُ فِيهِ عَبْدًا مِنَ النَّارِ مِنْ يَوْمِ عَرَفَةَ وَإِنَّهُ لَيَدْنُو ثُمَّ يُبَاهِى بِهِمُ الْمَلاَئِكَةَ فَيَقُولُ مَا أَرَادَ هَؤُلاَءِ » رواه مسلم.
“Không có ngày nào có số lượng người bề tôi được Allah cứu rỗi khỏi Hỏa ngục nhiều hơn ngày Arafah, và Ngày hôm đó, Ngài sẽ xuống rất gần rồi Ngài bảo một cách tự hào với các vị Thiên thần của Ngài, Ngài nói: Những người đó muốn gì?” (Muslim).
Ibnu Abdul-Barr ﷺ nói: “Hadith chỉ rằng tất cả họ sẽ được tha thứ tội lỗi bởi vì Ngài không tự hào với những người làm điều tội lỗi và nghịch đạo trừ phi sau khi họ đã sám hối và được tha thứ.”
Và việc tất cả mọi người triệu tập tại Arafah nhằm để nhắc nhở họ nhớ đến ngày “đại triệu tập” để Allah phán xét va phân xử giữa các tạo vật của Ngài, và phân loại ai sẽ được sống nơi Thiên Đàng hạnh phúc và vĩnh hằng và ai sẽ phải bị đày vào Hỏa ngục đầy khổ ải.
Và trong các nghi thức Hajj, có việc giết tế súc vật, đây là một hình thức thờ phượng mà những người Muslim dùng nó để được đến gần Thượng Đế của họ. Allah, Đấng Tối Cao phán:
﴿ لَن يَنَالَ ٱللَّهَ لُحُومُهَا وَلَا دِمَآؤُهَا وَلَٰكِن يَنَالُهُ ٱلتَّقۡوَىٰ مِنكُمۡۚ ﴾ [سورة الحج: 37]
{Không phải thịt của chúng hay máu chúng đến tận Allah mà chính lòng ngay chính sợ Allah của các người lên giáp Ngài.} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 37).
Và Zikir (tụng niệm) là sự sống của con tim, sự tụng niệm nhiều trong các nghi thức Hajj mang giá trị của tâm hồn luôn hy vọng, biểu hiện sự thành tâm của mọi hành động. Allah, Đấng Tối Cao phán:
﴿ لِّيَشۡهَدُواْ مَنَٰفِعَ لَهُمۡ وَيَذۡكُرُواْ ٱسۡمَ ٱللَّهِ فِيٓ أَيَّامٖ مَّعۡلُومَٰتٍ ﴾ [سورة الحج: 28]
{Để cho họ chứng kiến những lợi lộc được ban cấp cho họ và để họ tụng niệm tên của Allah trong một số ngày ấn định} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 28).
﴿ فَإِذَآ أَفَضۡتُم مِّنۡ عَرَفَٰتٖ فَٱذۡكُرُواْ ٱللَّهَ عِندَ ٱلۡمَشۡعَرِ ٱلۡحَرَامِۖ ﴾ [سورة البقرة: 198]
{Nhưng khi các ngươi vội vã rời Arafah thì hãy tụng niệm và tán dương Allah tại ngôi đền linh thiêng,} (Chương 2 – Albaqarah, câu 198).
ﮋفَإِذَا قَضَيۡتُم مَّنَٰسِكَكُمۡ فَٱذۡكُرُواْ ٱللَّهَ كَذِكۡرِكُمۡ ءَابَآءَكُمۡ أَوۡ أَشَدَّ ذِكۡرٗاۗ ﮊ [سورة البقرة: 200]
{Do đó, khi nào các ngươi hoàn thành cuộc hành hương Hajj của các ngươi thì các ngươi hãy vẫn tụng niệm và tán dương Allah như cách các ngươi đã tướng nhớ cha mẹ của các ngươi trước kia hoặc hãy nhiều hơn} (Chương 2 – Albaqarah, câu 200).
﴿ وَٱذۡكُرُواْ ٱللَّهَ فِيٓ أَيَّامٖ مَّعۡدُودَٰتٖۚ ﴾ [سورة البقرة: 203]
{Và hãy tụng niệm và tán dương Allah vào những ngày (ở Mina) được ấn định.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 203).
Bởi các nghi thức được qui định trong Hajj đều để tụng niệm Allah, Đấng Tối Cao, như Nabi Muhammad e đã có nói:
« إِنَّمَا جُعِلَ الطَّوَافُ بِالْبَيْتِ وَ السَعْيُ بَيْنَ الصَّفَا وَالْمَرْوَةِ وَرَمْىُ الْجِمَارِ لإِقَامَةِ ذِكْرِ اللهِ ». رواه الترمذي
“Quả thật, việc Tawaf quanh ngôi đền Ka’bah và Sa-i giữa đồi Safa và Marwah cũng như ném đá các trụ Jamarat là chỉ để thiết lập sự tụng niệm và tưởng nhớ Allah.” (Tirmizhi).
Người thực hiện chuyến hành hương Hajj có vị trí gần với Allah nhất là người có sự tụng niệm nhiều nhất. Ibnu Qayyim ﷺ nói: “Người tốt nhất trong các việc làm của mình là người có Zikir (tụng niệm) nhiều nhất, người nhịn chay tốt nhất là người có Zikir nhiều nhất trong thời gian nhịn chay của mình, người Sadaqah (bố thí) tốt nhất là người có Zikir nhiều nhất, và người tốt nhất trong cuộc hành hương Hajj là người có Zikir nhiều nhất trong thời gian Hajj”.
Và khi đã hoàn tất cuộc hành hương Hajj thì hãy nên nhiều lời Istighfar (cầu xin Allah tha thứ) bởi nó là việc làm cuối cùng của các việc làm. Và Istighfar sẽ đưa người bề tôi từ việc làm thiếu sót đến sự hoàn thiện của việc làm, đưa người bề tôi từ thấp đến cao của sự hoàn hảo, từ cái hoàn thiện đến cái hoàn thiện hơn của mọi việc làm.
Và một trong những dấu hiệu của sự được Allah hài lòng và chấp nhận: việc thiện tốt luôn theo gót việc thiện tốt, khi người thực hiện Hajj trở về lại xứ sở của mình, y sẽ là một tấm gương về những việc làm thiện tốt, một tấm gương của sự ngay chính và mẫu mực cũng như một tấm gướng truyền dạy cái lẽ phải tốn giáo cho mọi người.
ﭷ ﭸ ﭹ ﭺ ﭻ ﴿ وَأَذِّن فِي ٱلنَّاسِ بِٱلۡحَجِّ يَأۡتُوكَ رِجَالٗا وَعَلَىٰ كُلِّ ضَامِرٖ يَأۡتِينَ مِن كُلِّ فَجٍّ عَمِيقٖ ٢٧ لِّيَشۡهَدُواْ مَنَٰفِعَ لَهُمۡ وَيَذۡكُرُواْ ٱسۡمَ ٱللَّهِ فِيٓ أَيَّامٖ مَّعۡلُومَٰتٍ عَلَىٰ مَا رَزَقَهُم مِّنۢ بَهِيمَةِ ٱلۡأَنۡعَٰمِۖ فَكُلُواْ مِنۡهَا وَأَطۡعِمُواْ ٱلۡبَآئِسَ ٱلۡفَقِيرَ ٢٨ ﴾ [سورة الحج: 27، 28]
{Và hãy tuyên bố với nhân loại việc thi hành Hajj. Họ sẽ đi bộ hoặc cưỡi từng con lạc đà gầy ốm băng qua từng hẻm núi sâu thẳm để đến cùng dâng lễ với Ngươi. Để cho họ chứng kiến những phúc lợi được ban cấp cho họ và để họ tụng niệm đại danh của Allah trong các ngày được ấn định và hãy nhân danh Allah trên những con thú nuôi mà Ngài ban cấp cho họ (khi giết tế chúng). Do đó, hãy ăn thịt của chúng (những con vật được giết tế) và phân phát cho những người nghèo đói.} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 27, 28).
بارَكَ اللهُ لِي وَلَكُمْ فِي الْقُرْآنِ الْعَظِيْمِ، وَنَفَعَنِي وَإِيَاكُمْ بِمَا فِيْهِ مِنَ الآيَاتِ وَالذِّكْرِ الْحَكِيْمِ، أَقُوْلُ قَوْلِي هَذَا وَأَسْتَغْفِرُ اللهَ لِي وَلَكُمْ وَلِكَافَّةِ الْمُسْلِمِيْنَ مِنْ كُلِّ ذَنْبٍ فَاسْتَغْفِرُوهُ إِنَّهُ هُوَ الْغَفُورُ الرَّحِيْمُ.
Cầu xin Allah ban phúc lành cho tôi và cho tất cả các anh em đồng đạo qua kinh Qur’an thiêng liêng và vĩ đại, xin Ngài hãy ban phúc lợi cho tôi và cho tất cả các anh em đồng đạo qua những răn dạy và hướng dẫn quí giá từ các Lời mặc khải của Qur’an.
Tôi nói những lời này, và tôi cầu xin Allah tha thứ tội lỗi cho tôi và cho tất cả các tín đồ Muslim, xin Ngài hãy tha thứ cho họ bởi quả thật Ngài là Đấng hằng tha thứ và Nhân từ.
Khutbah thứ hai
اَلْحَمْدُ لِلهِ عَلَى إِحْسَانِهِ، وَالشُّكْرُ لَهُ عَلَى تَوْفِيْقِهِ وَامْتِنَانِهِ، وَأَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَحْدَهُ لَا شَرِيكَ لَهُ تَعْظِيْمًا لِشِأْنِهِ وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ. وَصَلَّى اللهُ وَسَلَّمَ عَلىَ نَبِيِّنَا مُحَمْدٍ وَعَلىَ آلِهِ وَصَحْبِهِ وَسَلَّمَ.
Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng Allah về sự đối xử tốt đẹp của Ngài, tạ ơn Ngài về những hông phúc và ân huệ mà Ngài ban cho, và tôi xin chứng nhận không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Allah, chỉ có một mình Ngài là Thượng Đế, không có đối tác ngang hàng cùng với Ngài, và tôi xin chứng nhận Muhammad là người bề tôi và là vị Thiên sứ của Ngài. Cầu xin Allah ban sự bằng an và phúc lành cho vị Nabi của chúng con, cho gia quyến của Người cùng tất cả các bạn đạo của Người.
Hỡi những đồng đạo Muslim!
Mười ngày đầu của tháng Zhul-Hijjah là những ngày ân phúc và thiêng liêng, các việc làm trong những ngày ấy mang lại nhiều hồng phúc, Nabi e nói:
« مَا مِنْ أَيَّامٍ الْعَمَلُ الصَّالِحُ فِيهَا أَحَبُّ إِلَى اللهِ مِنْ هَذِهِ الأَيَّامِ ». يَعْنِى أَيَّامَ الْعَشْرِ. قَالُوا يَا رَسُولَ اللهِ وَلاَ الْجِهَادُ فِى سَبِيلِ اللهِ قَالَ « وَلاَ الْجِهَادُ فِى سَبِيلِ اللهِ إِلاَّ رَجُلٌ خَرَجَ بِنَفْسِهِ وَمَالِهِ فَلَمْ يَرْجِعْ مِنْ ذَلِكَ بِشَىْءٍ » رواه الترمذي.
“Không có việc làm thiện tốt nào được thực hiện trong các ngày mà Allah yêu thương bằng các việc làm thiện tốt được thực hiện trong những ngày này” tức mười ngày đầu của Zhul-Hijjah. Các Sahabah nói: Thưa Thiên sứ của Allah! Ngay cả việc Jihad (ra trận chiến đấu) cho con đường chính nghĩa của Allah hay sao? Người e nói: “Ngay cả việc Jihad trừ người đàn ông tự nguyện mang tính mạng và tài sản của mình ra đi nhưng không mang trở về một điều gì” (Tirmizhi).
Do đó, hãy nhiều và hãy thật nhiều Takbir, Tahmid (Alhamdulillah), đọc Qur’an, gắn kết tình thân tộc và hữu nghị, hiếu thảo với cha mẹ, Sadaqah, giúp đỡ người hoạn nạn và lỡ bước, cũng như tất cả các việc làm thiện tốt khác.
Quả thật, các vị Sahabah y trước kia thường rất thích thực hiện các Takbir Sunnah trước mọi người trong mười ngày đầu của Zhul-Hijjah. Ibnu Umar t và Abu Huroiroh vào những ngày này, họ thường đi ra ngoài chợ, họ Takbir và mọi người cùng hô Takbir với họ (Albukhari).
Và sự tốt lành cứ tiếp diễn trong mười ngày đầu Zhul-Hijjah bởi trong đó có ngày giết tế con vật Qurban vào Ngày đại lễ Eid và vào ba ngày Tashreeq (11, 12, 13) sau đó. Quả thật, Nabi e đã nhân danh Allah và Takbir cắt cổ hai con cừu có sừng trong ngày hôm đó bằng chính tay của Người. (Albukhari, Muslim).
Con vật Qurban tốt nhất là con vật có giá cao nhất, và một con cừu có thể định tâm Qurban cho một người và già đình của y, và người nào muốn giết tế con vật Qurban thì y bị cấm bức nhổ lông tóc, cắt móng tay, móng chân trong mười ngày đầu của Zhul-Hijjah cho đến khi giết tế con vật.
Và người nào vẫn còn ở xứ sở của mình vì không có cơ hội đi hành hương Hajj thì giáo luật qui định cho họ một ngày nhịn chay Sunnah, đó là nhịn chay ngày Arafah (tức ngày mồng chính Zhul-Hijjah). Nabi Muhammad e nói:
« صِيَامُ يَوْمِ عَرَفَةَ أَحْتَسِبُ عَلَى اللهِ أَنْ يُكَفِّرَ السَّنَةَ الَّتِى قَبْلَهُ وَالسَّنَةَ الَّتِى بَعْدَهُ » رواه مسلم.
“Nhịn chay ngày Arafah sẽ được Allah xóa hết tội lỗi của năm vừa qua và năm sắp tới” (Muslim).
Do đó, các đồng đạo hãy biết tận dụng cơ hội của các mùa thờ phượng trước khi chúng ra đi, bởi cuộc sống là cơ hội, là những ngày được giới hạn nhất định với tuổi đời thật ngắn ngủi.
Quí đồng đạo thân hữu, chúng ta hãy biết rằng quả thật Allah đã ra lệnh cho chúng ta Salawat (cầu xin bằng an và phúc lành) cho vị Nabi của Ngài, Ngài phán:
﴿ إِنَّ ٱللَّهَ وَمَلَٰٓئِكَتَهُۥ يُصَلُّونَ عَلَى ٱلنَّبِيِّۚ يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ صَلُّواْ عَلَيۡهِ وَسَلِّمُواْ تَسۡلِيمًا ٥٦ ﴾ (سورة الأحزاب: 56)
{Quả thật, Allah và các Thiên thần luôn Salawat cho Nabi. Này hỡi những ai có đức tin! Hãy Salawat và cầu xin bằng an cho Y.} (Chương 33 – Al’Ahzab, câu 56).
اللهم صَلِّ وَسَلِّمَ وَبَارِكْ عَلَى نَبِيْنَا مُحَمَّدٍ، وَارْضَ اللهم عَنْ خُلَفَائِهِ الرَاشِدِيْنِ الذِيْنَ قَضُوْا بِالْحَقِّ وَبِهِ كَانُوْا يَعْدِلُوْنَ: أَبِيْ بِكْرٍ، وَعُمَر، وَعُثْمَان، وَعَليٍّ، وَعَنْ سَائِرِ الصَّحَابَةِ أَجْمَعِيْنَ، وَعَنَّا مَعَهُمْ بِجَوْدِكَ وَكَرَمِكَ يَا أَكْرَمُ الْأَكْرَمِيْنَ.
اللهم أَعِزَّ الْإِسْلاَمِ وَالْمُسْلِمِيْنَ، وَأَذِلَّ الشِّرْكَ وَالْمُشْرِكِيْنَ، وَدَمِّرْ أَعْدَاءَ الدِّيْنِ، وَاجْعَلِ اللهم هَذَا الْبَلَدَ آمِنًا مُطْمَئِنّاً، وَسَائِرِ بِلَادِ الْمُسْلِمِيْنَ.
اللهم اغْفِرْ لِلْحُجَّاجِ وَالْمُعُتَمِرِيْنَ، اللهم احْفَظْ حُجَّاجَ بَيْتِكَ الْحَرَامِ، اللهم اجْعَلْ حَجَّهُمْ مَبْرُوْرًا، وَسَعْيَهُمْ مَشْكُوْرًا، وَعَمَلَهُمْ مُتَقَبَّلاً يَا رَبَّ الْعَالَمِيْنَ.
اللهم إِنَّا نَسْأَلُكَ الْجَنَّةَ وَمَا قرَّبَ إِلَيْهَا مِنْ قَوْلٍ أَوْ عَمَلٍ، وَنَعُوْذُ بِكَ اللهم مِنَ النَّارِ وَمَا قَرَّبَ إِلَيْهَا مِنْ قَوْلٍ أَوْ عَمَلٍ، اللهم إِنَّا نَعُوْذُ بِكَ أَنْ نُشْرِكَ بِكَ شَيْئًا وَنَحْنُ نَعْلَمُ، وَنَسْتَغْفِرُكَ لِمَا لَا نَعْلَمُ.
اللهم إِنَّا نَسْأَلُكَ الْفِرْدَوْسَ الْأَعْلَى مِنَ الْجَنَّةِ، اللهم حَرِّمْ بَشَرتنا ولحُوْمَنَا عَلَى النَّارِ.
اللهم وفِّقْ إِمَامَنَا ِلُهدَاكَ، وَاجْعَلْ عَمَلَهُ فِيْ رِضَا، وَوَفِّقْ جَمِيْعَ وِلَاة أُمْوْرِ الْمُسْلِمِيْنَ لِلْعَمَلِ بِكِتَابِكَ، وَتَحْكِيْم شَرْعَكَ يَا ذَا الْجَلَالِ وِالْإِكْرَامِ.
﴿ إِنَّ اللهَ يَأْمُرُ بِالْعَدْلِ وَالإحْسَانِ وَإِيتَاءِ ذِي الْقُرْبَى وَيَنْهَى عَنِ الْفَحْشَاءِ وَالْمُنْكَرِ وَالْبَغْيِ يَعِظُكُمْ لَعَلَّكُمْ تَذَكَّرُونَ ﴾ [سورة النحل: 90]
وَاذْكُرُوْا اللهَ الْعَظِيْمَ الْجَلِيْلَ يَذْكُرْكُمْ وَاشْكُرُوهُ عَلَى نِعَمِهِ يَزِدْكُمْ وَلَذِكْرُ اللهِ أَكْبَرُ وَاللهُ يَعْلَمُ مَا تَصْنَعُونَ.
Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy ban bằng an và phúc lành cho Nabi của chúng con, Muhammad, và xin Ngài hài lòng với các vị Khalif chính trực, những người đã lãnh đạo một cách công bằng và liêm chính: Abu Bakr, Umar, Uthman, Ali cùng với các vị Sahabah của Người.
Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy củng cố Islam và những người Muslim, xin Ngài hạ thấp sự đa thần và những kẻ tôn thờ đa thần, xin Ngài hãy hủy diệt những kẻ thù của tôn giáo Islam, và xin Ngài hãy phù hộ cho xứ sở này được an lành và bình yên cũng như các nước Islam khác.
Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy tha thứ cho các anh em đồng đạo đi hành hương Hajj và Umrah; lạy Thượng Đế, xin Ngài phù hộ và chẻ chở cho những người viếng thăm ngôi nhà của Ngài, Alharam; lạy Thượng Đế, xin Ngài làm cho cuộc hành hương Hajj của họ được chấp nhận nơi Ngài, và làm cho họ thành những người biết tri ân Ngài, và các việc làm của họ luôn được chấp nhận, ôi Thượng Đế của muôn loài!
Lạy Thượng Đế, chúng con cầu xin Ngài Thiên Đàng và những gì từ lời nói và hành động có thể đến gần Thiên Đàng; lạy Thượng Đế, chúng con cầu xin Ngài cứu rỗi chúng con khỏi Hỏa ngục và những gì từ lời nói cũng như hành động khiến chúng con đến gần Hỏa ngục; lạy Thượng Đế, chúng con cầu xin Ngài giúp chúng con tránh khỏi hành vi Shirk với Ngài mà chúng con biết và xin Ngài tha thứ cho chúng con những hành vi mà chúng con không hay biết.
Lạy Thượng Đế, chúng con cầu xin Ngài thu nhận chúng còn vào tầng Firdaws trên cao nơi Thiên Đàng của Ngài; lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy ngăn cản da, thịt của chúng con đến với Hỏa ngục của Ngài.
Lạy Thượng Đế, xin Ngài hướng dẫn Imam của chúng con, xin Ngài làm cho những việc làm của y luôn được Ngài hài lòng, xin Ngài hướng dẫn và soi sáng tất cả những người lãnh đạo và quản lý những người Muslim luôn thực hiện theo Kinh sách của Ngài và luôn phán xét theo giáo luật của Ngài, ôi hỡi Đấng Toàn Năng, Đấng Quyền Uy.
{Quả thật, Allah truyền lệnh thi hành công lý, phải làm điều thiện và bố thí cho người ruột thịt, hãy ngăn cản những điều đồi bại, tội lỗi, nghịch đạo và ác đức, Ngài dạy bảo các ngươi mong rằng các ngươi biết lưu nhớ.} (Chương 16 – Annahl, câu 90).
Hãy tụng niệm Allah, Đấng Vĩ Đại, Tối Cao, rồi Ngài sẽ nhớ đến các ngươi, hãy tạ ơn Ngài về những ân huệ và hồng phúc của Ngài rồi Ngài sẽ ban thêm cho các ngươi, và sự tụng niệm Allah là điều lớn nhất và Allah luôn biết rõ những gì các ngươi làm.!!!
d f