Tafseer Chương Al-Balad
Các danh mục
Full Description
Tafseer Chương Al-Balad
] Tiếng Việt – Vietnamese – فيتنامية [
Abu Zaytune Usman Ibrahim
Kiểm duyệt: Abu Hisaan Ibnu Ysa
2014 - 1435
تفسير الوجيز لسورة البلد
« باللغة الفيتنامية »
أبو زيتون عثمان إبراهيم
مراجعة: أبو حسان محمد زين بن عيسى
2014 - 1435
Allah phán:
بِسْمِ اللهِ الرَّحْمَنِ الرَّحِيْمِ
Nhân danh Allah Đấng Rất Mực Độ Lượng,
Đấng Rất Mực Khoan Dung
(1 -3 ) ﴿لَآ أُقۡسِمُ بِهَٰذَا ٱلۡبَلَدِ ١ وَأَنتَ حِلُّۢ بِهَٰذَا ٱلۡبَلَدِ ٢ وَوَالِدٖ وَمَا وَلَدَ٣﴾
(1 – 3) {TA thề bởi xứ sở này. Và Ngươi là một cư dân của xứ sở này. Và TA thề bởi người cha và những gì được sinh ra từ y. Quả thật TA đã tạo hóa con người trong sự cực nhọc và đau khổ}.
Allah I thề bởi xứ sở Alharam tức Makkah và Ngươi – Muhammad e – là cư dân của xứ sở thiêng liêng này, thề bởi tổ phụ của loài người đó là Adam u và các thế hệ dòng dõi của Y.
Allah I có quyền thề với bất cứ thứ gì Ngài muốn trong tạo vật của Ngài, nhưng con người chúng ta được phép thề bởi một mình Ngài duy nhất.
(4) ﴿لَقَدۡ خَلَقۡنَا ٱلۡإِنسَٰنَ فِي كَبَدٍ ﴾
(4) {Quả thật TA đã tạo hóa con người trong sự cực nhọc và đau khổ}
Quả thật con người được tạo ra phải chịu sự nhọc nhằn và đau khổ về tâm trí và thể xác trên thế gian. Allah I đã phán trong câu Kinh khác:
﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلۡإِنسَٰنُ إِنَّكَ كَادِحٌ إِلَىٰ رَبِّكَ كَدۡحٗا فَمُلَٰقِيهِ ﴾
{Này hỡi con người! Quả thật ngươi đã vất vả và nhọc nhằn để trở về với Thượng Đế của Ngươi nên ngươi sẽ gặp lại Ngài.} (chương 84 – Al-Inshiqaaq, câu 6).
(5) ﴿أَيَحۡسَبُ أَن لَّن يَقۡدِرَ عَلَيۡهِ أَحَدٞ ﴾
(5) {Phải chăng con người nghĩ rằng không ai có quyền năng trên y ư ?}
Há con người nghĩ rằng với sự giàu sang phú quý của y, với sức mạnh phi thường của y và với quyền thế vững chắc của y thì Allah I sẽ không thể làm gì được y chăng?
Cò lời nói rằng câu Kinh này xuống nói về một người đàn ông có tên là Abu Al-Ashad bin Qulidah, người này có sức mạnh phi thường, cò lời kể rằng người đàn ông thường đặt một miếng da dưới nền đất rồi ông ta đứng trên đó và thách đố ai có thể kéo miếng da và lãm ngã ông ta. Nhưng chưa từng có ai có thể làm được điều đó, nhiều lúc có người cố gắng dùng hết sức để kéo và kết quả chỉ làm rách miếng da và té bật ngửa.
Câu kinh này có 2 cách đọc thèo đúng Sunnah của Nabi e: (أَيَحۡسَبُ) hoặc (أَيَحۡسِبُ).
(6)، (7) يَقُولُ أَهۡلَكۡتُ مَالٗا لُّبَدًا ٦ أَيَحۡسَبُ أَن لَّمۡ يَرَهُۥٓ أَحَدٌ﴾
(6), (7) {Y bảo: Tôi đã tiêu hao quá nhiều tài sản. Chẳng lẽ con người tưởng rằng không có ai nhìn thấy y sao ?}
Con người thường nói một cách khoe khoan và phô trương và thường ra vẻ ta đây giàu có và tốt bụng: Tôi đã chi dùng rất nhiều tài sản cho việc bố thí, cho việc làm từ thiện, cho con đường. {Chẳng lẽ con người tưởng rằng không có ai nhìn thấy y sao ?}. Há con người nghĩ rằng Allah I không nhìn thấy và biết hết từng hành động của y chăng, há y nghĩ rằng Allah I không thanh toán tất cả mọi điều cho dù nhỏ hay lớn chăng?
Từ (لُّبَدًا) cũng có hai cách đọc: (لُّبَدًا) hoặc (لُّبَّدًا).
(8 – 10) ﴿ أَلَمۡ نَجۡعَل لَّهُۥ عَيۡنَيۡنِ ٨ وَلِسَانٗا وَشَفَتَيۡنِ ٩ وَهَدَيۡنَٰهُ ٱلنَّجۡدَيۡنِ ﴾
(8 – 10) {Chẳng lẽ TA đã không tạo cho y cặp mắt? Cùng với chiếc lưỡi và đôi môi? Và hướng dẫn y hai con đường ư ?}
Há TA (Allah) đã không tạo cho con ngươi cặp mắt để nhìn ngắm và quan sát, chiếc lưỡi và đôi môi để nói chuyện, và vạch ra cho y hai con đường tốt xấu và hướng dẫn y đi trên con đường tốt?
Có lời Tafseer rằng: hai con đường này có nghĩa là hai bầu vú của người mẹ, tức Allah I là Đấng đã hướng dẫn cho đứa bé sau khi lọt lòng mẹ biết được nơi mà nó có tìm thấy nguồn dinh dưỡng, và đó chính là hai bầu sữa mẹ. Nhưng lời Tafseer chuẩn xác và đúng nhất rằng ý nghĩa hai con đường ở đây chính là còn đường tốt và con đường xấu.
﴿إِنَّا هَدَيۡنَٰهُ ٱلسَّبِيلَ إِمَّا شَاكِرٗا وَإِمَّا كَفُورًا﴾
{TA đã hướng dẫn y con đường để đi, hoặc là y sẽ biết ơn hoặc là y sẽ phụ ơn.} (Chương 76 - Insan, câu 3)
Con người sẽ tự chọn lấy một trong hai con đường để đi và y phải chịu trách nhiệm với con đường đã chọn, cũng chính vì vậy nên Allah I đã phán:
﴿وَمَا كُنَّا مُعَذِّبِينَ حَتَّىٰ نَبۡعَثَ رَسُولٗا ١٥﴾
{Và TA không bao giờ trừng phạt trừ khi TA đã cử một vị Sứ giả đến} (Chương 17 - Al-Isra, câu 15).
(11) ﴿فَلَا ٱقۡتَحَمَ ٱلۡعَقَبَةَ﴾
(11) {Chẳng phải đã có một sự trở ngại ?}
Há con người không biết rằng y phải vượt qua một sự trở Ngại ở Ngày Sau bằng cách phải chi dùng tài sản của y đúng cách hay sao? Nếu y chi dùng đúng cách thì y sẽ được an toàn.
(12) ﴿وَمَآ أَدۡرَىٰكَ مَا ٱلۡعَقَبَةُ﴾
(12) {Và Ngươi có biết sự trở ngại đó là gì không ?}.
Và Ngươi có biết sự trở ngại ở Ngày Sau là gì không, và điều gì sẽ giúp vượt qua sự trở ngại đó?
(13) ﴿فَكُّ رَقَبَةٍ﴾
(13) {Đó là việc giải phóng nô lệ}
Đó là trả tự do cho một người nữ hay nam nô lệ từ các tù binh, hay người nô lệ nói chung.
Và câu kinh này còn có cách đọc khác: (فَكَّ رَقَبَةٍ)
(14 – 16) ﴿أَوۡ إِطۡعَٰمٞ فِي يَوۡمٖ ذِي مَسۡغَبَةٖ ١٤ يَتِيمٗا ذَا مَقۡرَبَةٍ ١٥ أَوۡ مِسۡكِينٗا ذَا مَتۡرَبَةٖ﴾
(14 – 16) {Hoặc nuôi ăn vào một ngày đói lả. Một đứa trẻ mồ côi thân thích. Hoặc một người khó khăn túng thiếu dính bụi đường}
Hoặc nuôi ăn vào một ngày đói khát cho trẻ mồ côi thân thuộc hoặc cho người nghèo đói không có gì lót dạ. Sự nuôi ăn và giúp đỡ đây Allah I muốn nói rằng người cho cũng rất cần những thứ mà y mang cho đi chứ không phải là của thừa vì quá giàu hoặc là những thứ không cần thiết nữa. Họ chia sớt khó khăn với mọi người mặc dù họ cũng rất khó khăn không kém. Đấy chính là ý nghĩa mà Allah I phán trong câu kinh:
﴿لَن تَنَالُواْ ٱلۡبِرَّ حَتَّىٰ تُنفِقُواْ مِمَّا تُحِبُّونَۚ﴾ (سورة آل عمران: 92)
{Các ngươi sẽ không bao giờ đạt đến mức đạo đức và sự ngoan đạo cho đến khi nào các ngươi chi dùng cho chính nghĩa của Allah những gì mà các ngươi yêu thích.} (Chương 3 – A-li Imran, câu 92).
﴿وَيُؤۡثِرُونَ عَلَىٰٓ أَنفُسِهِمۡ وَلَوۡ كَانَ بِهِمۡ خَصَاصَةٞۚ ﴾
{Họ đã dành ưu tiên cho những người Muhajir hơn chính bản thân họ mặc dầu họ cũng là những người thiếu thốn không kém} (Chương 59 – Al-Hasr, câu 9).
Câu Kinh này cũng có cách đọc khác: (أَطْعَٰمَ)
(17) ﴿ثُمَّ كَانَ مِنَ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَتَوَاصَوۡاْ بِٱلصَّبۡرِ وَتَوَاصَوۡاْ بِٱلۡمَرۡحَمَةِ﴾
(17) {Rồi nếu ai trở thành một người trong đám người có đức tin, khuyên bảo nhau kiên nhẫn, và khuyên bảo nhau yêu thương và độ lượng}
Những người luôn làm điều thiện tốt và luôn hướng đức tin của mình nơi Allah I, khuyên nhủ nhau kiên nhẫn, vâng lệnh Ngài, tránh xá điều tội lỗi, kết nối tình yêu thương nhân loại.
(18) ﴿أُوْلَٰٓئِكَ أَصۡحَٰبُ ٱلۡمَيۡمَنَةِ ﴾
(18) {Những người đó sẽ là người bạn của tay phải}
Những người luôn làm những điều nói trên sẽ là những người bạn của tay phải, vào Ngày Sau, họ sẽ cùng nhau đi vào Thiên Đàng hạnh phúc.
(19) ﴿وَٱلَّذِينَ كَفَرُواْ بَِٔايَٰتِنَا هُمۡ أَصۡحَٰبُ ٱلۡمَشَۡٔمَةِ﴾
(19) {Còn những kẻ vô đức tin với những lời Mặc khải của TA thì họ là những người bạn của tay trái}
Những kẻ vô đức tin phủ nhận Qur’an sẽ là những người bạn của tay trái tức sẽ phải bị đày vào Hỏa ngục.
(20) ﴿عَلَيۡهِمۡ نَارٞ مُّؤۡصَدَةُۢ ﴾
(20) {Chúng sẽ bị lửa bao phủ}
Phần thưởng của chúng là bị lửa bao vây và thiêu đốt. (مُّؤۡصَدَةُۢ ) có nghĩa bị đóng kín, tức Hỏa Ngục là một nơi bị đóng kín lại.
Và (مُّؤۡصَدَةُۢ ) còn được đọc theo một cách khác cũng nằm trong cách đọc của Thiên sứ, đó là (مُّوْصَدَةُۢ ).