×
Truyện Từ Qur’an - Nabi Musa với Fir’aun và ân phước nhịn chay ngày A’shu-ra -: là một trong các bài thuyết giảng của Tiến sĩ Sa’eed bin Ali bin Wahaf Al-Qahta-ni. Bài thuyết giảng này xoay quanh về câu chuyện giữa Nabi Musa (Moses) u với tên bạo chúa vô đức tin Fir’aun (Pharaon) và ân phước của việc nhịn chay ngày A’shu-ra, ngày mà những người Do thái nhịn chay để tưởng nhớ về sự kiện Allah cứu Nabi Musa u cùng các tín đồ của Người và nhấn chìm tên bạo chúa Fir’aun trong biển hồng hải.

    Câu Chuyện Về Nabi Musa u Với Fir’aun &

    Ân Phước Nhịn Chay Ngày A’shu-ra

    ] Tiếng Việt – Vietnamese – فيتنامية [

    Sa’eed Bin Ali Bin Wahaf Al-Qahta-ni

    Dịch thuật: Abu Zaytune Usman Ibrahim

    Kiểm duyệt: Abu Hisaan Ibnu Ysa

    2014 - 1436

    قصة موسى S مع فرعون

    وفضل صيام عاشوراء

    « باللغة الفيتنامية »

    سعيد بن علي بن وهف القحطاني

    ترجمة: أبو زيتون عثمان إبراهيم

    مراجعة: أبو حسان محمد زين بن عيسى

    2014 - 1436

    ﭑ ﭒ ﭓ ﭔ

    Nhân Danh Allah

    Đấng Rất Mực Độ Lượng

    Đấng Rất Mực Khoan Dung

    “Câu chuyện về Nabi Musa u với Fir’aun và ân phước nhịn chay ngày A’shu-ra” là một trong các bài thuyết giảng của Tiến sĩ Sa’eed bin Ali bin Wahaf Al-Qahta-ni. Bài thuyết giảng này xoay quanh về câu chuyện giữa Nabi Musa (Moses) u với tên bạo chúa vô đức tin Fir’aun (Pharaon) và ân phước của việc nhịn chay ngày A’shu-ra, ngày mà những người Do thái nhịn chay để tưởng nhớ về sự kiện Allah cứu Nabi Musa u cùng các tín đồ của Người và nhấn chìm tên bạo chúa Fir’aun trong biển hồng hải.

    Khutbah thứ nhất

    إِنَّ الحَمْدُ للهِ نَحْمَدُهُ وَنَسْتَعِيْنُهُ وَنَسْتَغْفِرُهُ ، وَنَعُوْذُ بِاللهِ مِنْ شُرُوْرِ أَنْفُسِنَا وَمِنْ سَيِّئَاتِ أَعْمَالِنَا ، مَنْ يَهْدِ اللهُ فَلاَ مُضِلَّ لَهُ ، وَ مَنْ يُضْلِلْ فَلاَ هَادِيَ لَهُ. وَأَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَحْدَهُ لَا شَرِيكَ لَهُ وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ. وَصَلَّى اللهُ وَسَلَّمَ عَلىَ نَبِيِّنَا مُحَمْدٍ وَعَلىَ آلِهِ وَصَحْبِهِ وَمَنْ تَبِعَهُمْ بِإِحْسَانِ إلىَ يَوْمِ الدِّيْنِ وَسَلَّمَ تَسْلِيْماً كَثِيْرًا.

    Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng lên Allah, bầy tồi xin tạ ơn Ngài, bầy tôi xin Ngài phù hộ và tha thứ cho bầy tôi. Bầy tôi xin Allah cứu rỗi bầy tôi thoát khỏi những điều xấu từ bản thân bầy tôi và hành vi của bầy tôi, người nào được Allah hướng dẫn chắc chắn sẽ không bị lầm lạc và người nào bị Ngài cho lầm lạc thì chắc chắn sẽ không tìm được sự hướng dẫn. Và tôi chứng nhận không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Allah, chỉ có Ngài là Thượng Đế duy nhất không có đối tác cùng Ngài, và tôi chứng nhận Muhammad e là người bề tôi và là vị Thiên sứ của Allah.

    Cầu xin Allah ban nhiều bằng an và phúc lành cho Người e, gia quyến của Người và các bạn đạo của Người cùng tất cả những ai đi theo con đường tốt đẹp của họ cho đến Ngày Phán xét cuối cùng.

    Này hỡi những người bề tôi của Allah!

    Chúng ta hãy biết rằng, quả thật Nabi e của chúng ta đã thiết lập cho chúng ta những giáo điều mà với chúng Allah sẽ nâng cao giá trị và bậc cấp của chúng ta nơi Ngài, và một trong những giáo điều đó của chúng ta là nhịn chay vào những ngày của tháng Muharram, và đặc biệt hơn hết trong tháng đó là ngày nhịn chay ngày A’shu-ra.

    Theo lời thuật của Abu Huroiroh t, Thiên sứ của Allah e di huấn:

    « أَفْضَلُ الصِّيَامِ بَعْدَ رَمَضَانَ شَهْرُ اللهِ الْمُحَرَّمُ وَأَفْضَلُ الصَّلاَةِ بَعْدَ الْفَرِيضَةِ صَلاَةُ اللَّيْلِ » رواه مسلم (1163).

    “Nhịn chay tốt nhất sau tháng Ramadan là nhịn chay trong tháng của Allah, Muharram, và lễ nguyện Salah tốt nhất sau lễ nguyện Salah bắt buộc là lễ nguyện Salah vào ban đêm” (Muslim: 1163).

    Ông Abu Qata-dah t thuật lại rằng Thiên sứ của Allah e có di huấn:

    « ثَلاَثٌ مِنْ كُلِّ شَهْرٍ وَرَمَضَانُ إِلَى رَمَضَانَ فَهَذَا صِيَامُ الدَّهْرِ كُلِّهِ صِيَامُ يَوْمِ عَرَفَةَ أَحْتَسِبُ عَلَى اللهِ أَنْ يُكَفِّرَ السَّنَةَ الَّتِى قَبْلَهُ وَالسَّنَةَ الَّتِى بَعْدَهُ وَصِيَامُ يَوْمِ عَاشُورَاءَ أَحْتَسِبُ عَلَى اللهِ أَنْ يُكَفِّرَ السَّنَةَ الَّتِى قَبْلَهُ » مسلم برقم (1162).

    “Ba ngày của mỗi tháng và từ Ramadan này đến Ramadan kế tiếp là sự nhịn chay trọn vẹn nguyên năm; nhịn chay ngày Arafah, Ta tin rằng Allah sẽ bôi xóa tội lỗi của năm vừa qua và năm sắp tới; và nhịn chay ngày A’shu-ra, Ta tin rằng Allah sẽ bôi xóa tội lỗi của năm vừa qua” (Muslim: 1162).

    Bà A’ishah i nói: Trong thời Jahiliyah (thời ngu muội trước Islam), những người Quraish thường nhịn chay ngày A’shu-ra, và Thiên sứ của Allah e cũng từng nhịn chay vào ngày hôm đó, và sau khi Người e dời cư đến Madinah Người vẫn tiếp tục nhịn chay ngày đó. (Bakhari: 2002, Muslim: 1125).

    Ông Ibnu Abbas t nói: Khi mà Thiên sứ của Allah e nhịn chay ngày A’shu-ra và Người ra lệnh bảo nhịn chay ngày hôm đó thì các Sahabah nói: Thưa Thiên sứ của Allah! Quả thật, đó là ngày mà những người Do thái giáo và những người Thiên Chúa giáo đã tôn vinh nó. Người e bảo: Nếu Ta còn sống đến năm tới thì chắc chắn Ta sẽ nhịn chay cả ngày thứ chín (tức ngày mồng chín và ngày mồng mười của tháng Muharram). Nhưng năm tới đã không thể đến vì Người đã ra đi trước đó. (Muslim: 1134).

    Ông Ibnu Abbas t cũng nói: Thiên sứ của Allah e tới Madinah, Người thấy những người Do Thái nhịn chay ngày A’shu-ra, Người e hỏi họ: Hôm nay là ngày gì mà các người nhịn chay? Họ nói: Đây là ngày vĩ đại vì trong ngày này Allah đã cứu Nabi Musa u cùng các tín đồ của Người và nhấn chìm Fir’aun cùng đồng bọn của hắn, Nabi Musa u đã nhịn chay vào ngày hôm nay để tỏ lòng tri ân Ngài. Bởi thế, chúng tôi nhịn chay ngày hôm nay. Thiên sứ của Allah e nói: Vậy, chúng tôi cần phải tiên phong hơn các người trong việc noi gương theo Nabi Musa u. Thế là Nabi e đã nhịn chay ngày hôm đó và Người ra lệnh bảo mọi người nhịn chay ngày hôm đó. (Bukhari: 2004, Muslim: 1130).

    Quả thật, tên bạo chúa vô đức tin Fir’aun đã thái quá, ác đức và tàn bạo một cách vô nhân đạo. Allah, Đấng Tối Cao và Ân Phúc phán về hắn:

    ﴿ إِنَّ فِرۡعَوۡنَ عَلَا فِي ٱلۡأَرۡضِ وَجَعَلَ أَهۡلَهَا شِيَعٗا يَسۡتَضۡعِفُ طَآئِفَةٗ مِّنۡهُمۡ يُذَبِّحُ أَبۡنَآءَهُمۡ وَيَسۡتَحۡيِۦ نِسَآءَهُمۡۚ إِنَّهُۥ كَانَ مِنَ ٱلۡمُفۡسِدِينَ ٤ ﴾ [سورة القصص: 4]

    {Quả thật, Fir’aun ( Bạo chúa Pharaon) tự suy tôn là tối cao trong xứ và chia dân chúng thành nhiều giáo phái; hắn đã áp bức một nhóm dân bằng cách giết con trai của họ và tha sống cho phụ nữ của họ. Quả thật, hắn là một tên tàn bạo quá mức.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 4).

    Và một nhóm dân mà hắn đã áp bức được nói trong câu kinh là những người Israel. Hắn đã giết hết những người con trai của họ và tha sống cho những người phụ nữ của họ chỉ vì hắn lo sợ những người con trai khi chúng đông thì chúng có thể cướp đi vương quyền của hắn. Tuy nhiên, Allah, Đấng Tối Cao và Quyền lực muốn ban ân huệ đó cho những người dân Israel hèn yếu đó, Ngài muốn họ là những người lãnh đạo, những người kế thừa và cai trị, như Ngài đã phán:

    ﴿وَنُرِيدُ أَن نَّمُنَّ عَلَى ٱلَّذِينَ ٱسۡتُضۡعِفُواْ فِي ٱلۡأَرۡضِ وَنَجۡعَلَهُمۡ أَئِمَّةٗ وَنَجۡعَلَهُمُ ٱلۡوَٰرِثِينَ ٥ وَنُمَكِّنَ لَهُمۡ فِي ٱلۡأَرۡضِ وَنُرِيَ فِرۡعَوۡنَ وَهَٰمَٰنَ وَجُنُودَهُمَا مِنۡهُم مَّا كَانُواْ يَحۡذَرُونَ ٦ ﴾ [سورة القصص: 5، 6]

    {Và TA (Allah) muốn ban ân cho những người hèn yếu trong xứ, TA muốn làm cho họ trở thành những nhà lãnh đạo (tôn giáo) và thành những người kế thừa (cai quản và trông coi) trái đất. Và TA đã ban cho họ một chỗ định cư trong xứ và làm cho Fir’aun và Haman cùng với binh lính của hai đứa chúng thấy (dân Israel) có những điều làm cho chúng cả sợ.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 5, 6).

    Allah muốn Fir’aun và đồng bọn của chúng phải cả sợ nhóm dân hèn yếu này về việc họ sẽ là những người trục xuất chúng ra khỏi vùng đất của chúng. Và điều đầu tiên mà Allah đã tạo ra làm nguyên nhân chứng tỏ bản lĩnh quyền năng của Ngài là Ngài đã cho Nabi Musa u ra đời vào ngay thời điểm mà chúng giết những đứa bé trai. Allah đã mặc khải cho mẹ của Nabi Musa u rằng:

    ﴿وَأَوۡحَيۡنَآ إِلَىٰٓ أُمِّ مُوسَىٰٓ أَنۡ أَرۡضِعِيهِۖ فَإِذَا خِفۡتِ عَلَيۡهِ فَأَلۡقِيهِ فِي ٱلۡيَمِّ وَلَا تَخَافِي وَلَا تَحۡزَنِيٓۖ إِنَّا رَآدُّوهُ إِلَيۡكِ وَجَاعِلُوهُ مِنَ ٱلۡمُرۡسَلِينَ ٧ ﴾ [سورة القصص: 7]

    {Và TA đã mặc khải cho mẹ của Musa, phán: “Ngươi hãy cho đứa con trai của ngươi bú vú (của ngươi) nhưng khi ngươi lo sợ cho (sinh mạng của) nó, hãy ném nó xuống sông và chớ sợ sệt cũng chớ lo buồn cho (số phận của nó). Rõ thật, TA sẽ mang nó trả lại cho ngươi và cử nó làm Sứ giá (của TA)} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 7).

    Allah đã hứa rằng sẽ mang Nabi Musa u trả lại cho mẹ của Người, và Người sẽ là vị Thiên sứ của Ngài và sẽ phá vỡ kế hoạch của chúng (Fir’aun).

    Và khi mẹ của Nabi Musa u lo sợ, nên đã đặt Người vào một chiếc rương và thả xuống dòng sông Nile – Ai cập. Và Allah đã làm cho chiếc rương đó trôi đến Fir’aun, Allah muốn Người trở thành một kẻ thù và thành một nguồn lo âu cho Fir’aun và đồng bọn của hắn.

    ﴿ فَٱلۡتَقَطَهُۥٓ ءَالُ فِرۡعَوۡنَ لِيَكُونَ لَهُمۡ عَدُوّٗا وَحَزَنًاۗ ﴾ [سورة القصص: 8]

    {Bởi thế, người nhà của Fir’aun lượm Y (Musa) mang về nuôi để cho Y trở thành một kẻ thù và thành một mối lo âu cho chúng.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 8).

    Và điều này đã cho thấy rõ rằng việc đề phòng và có kế hoạch toan tính như thế nào đi chăng nữa thì cũng không thay dổi được số mệnh một khi nó đã được Allah an bài. Những gì chúng đang lo sợ đối với nhóm dân Israel, chúng lo sợ sẽ bị cướp mất vương quyền của chúng, chúng lập kế hoạch giết toàn bộ những bé trai của dân Israel, nhưng rồi chính kẻ quyền lực trong bọn chúng lại là kẻ cưu mang và nuôi dưỡng một đứa trẻ của Israel. Allah đã sắp đặt cho người nhà của tên bạo chúa Fir’aun lượm Nabi Musa u mang về và Người đã được vợ của Fir’aun – bà Asiyah con gái của Maza-him, một người phụ nữ có đức tin – rất yêu thương. Allah phán về lời của bà với Fir’aun về đứa bé (Nabi Musa):

    ﴿ وَقَالَتِ ٱمۡرَأَتُ فِرۡعَوۡنَ قُرَّتُ عَيۡنٖ لِّي وَلَكَۖ لَا تَقۡتُلُوهُ عَسَىٰٓ أَن يَنفَعَنَآ أَوۡ نَتَّخِذَهُۥ وَلَدٗا وَهُمۡ لَا يَشۡعُرُونَ ٩ ﴾ [سورة القصص: 9]

    {Và vợ của Fir’aun thưa (với chồng): “Đứa bé này sẽ là một nguồn vui cho cặp mắt của thiếp và bệ hạ. Bệ hạ chớ giết nó. Biết đâu nó sẽ giúp ích chúng ta hoặc chúng ta sẽ nhận nó làm con của chúng ta”. Và chúng không nhận thấy hậu quả của việc mà chúng đang làm.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 9).

    Và Allah đã làm cho đứa bé (Nabi Musa u) là điều phúc cho vợ của Fir’aun bởi sau này bà đã qui thuận Islam khi Nabi Musa u nhận lãnh sứ mạng Thiên sứ.

    Sau khi thả Nabi Musa u xuống dòng sông, mẹ của Người đã rất đau khổ, rất buồn vì nhớ thương Người.

    ﴿ وَأَصۡبَحَ فُؤَادُ أُمِّ مُوسَىٰ فَٰرِغًاۖ إِن كَادَتۡ لَتُبۡدِي بِهِۦ لَوۡلَآ أَن رَّبَطۡنَا عَلَىٰ قَلۡبِهَا لِتَكُونَ مِنَ ٱلۡمُؤۡمِنِينَ ١٠ ﴾ [سورة القصص: 10]

    {Và tấm lòng người mẹ của Musa trở nên trống trải (vì thương nhớ con) cho nên bà gần như muốn tiết lộ (câu chuyện) về đứa con trai của bà nếu TA không củng cố đức tin trong lòng của bà để cho bà vẫn còn là một người tin tưởng.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 10).

    Và mẹ của Nabi Musa nói với con gái:

    ﴿ وَقَالَتۡ لِأُخۡتِهِۦ قُصِّيهِۖ فَبَصُرَتۡ بِهِۦ عَن جُنُبٖ وَهُمۡ لَا يَشۡعُرُونَ ١١ ﴾ [سورة القصص: 11]

    {Và bà (mẹ) đã bảo người chị của Musa: “Con hãy theo (dọ hỏi tin tức) của em con!”. Do đó, người chị đứng nhìn đứa em từ đằng xa trong lúc (kẻ thù) không để ý đến nàng.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 11).

    Và quả thật, ngay từ đầu, Allah đã khiến cho Nabi Musa u không chịu bú sữa của những bà vú, thế là họ phải mang Người ra chợ hy vọng có thể tìm thấy một bà vú nào đó cho Người. Thế là người chị của Nabi Musa u tận dung cơ hội này để đưa em trai mình về gặp mẹ. Allah phán:

    ﴿ وَحَرَّمۡنَا عَلَيۡهِ ٱلۡمَرَاضِعَ مِن قَبۡلُ فَقَالَتۡ هَلۡ أَدُلُّكُمۡ عَلَىٰٓ أَهۡلِ بَيۡتٖ يَكۡفُلُونَهُۥ لَكُمۡ وَهُمۡ لَهُۥ نَٰصِحُونَ ١٢ ﴾ [سورة القصص: 12]

    {Và từ trước, TA đã khiến cho Y (Musa) không bú được sữa của những bà vú em, (mãi cho đến lúc người chị của Musa) đến gặp (người nhà của Fir’aun và) thưa: “Quí ngài có muốn tiện nữ chỉ cho quí ngài một gia đình đứng ra chăm sóc (đứa bé) giùm cho quí ngài hay không? Và họ là những người chỉ cầu mong cho bé được mạnh giỏi.”} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 12).

    Vậy là, bằng cách đó, Allah đã mang Nabi Musa u trả lại cho bà mẹ của Người, không những mẹ con được đoàn tụ mà Allah còn ban nhiều bổng lộc cho bà mẹ, đó là bà được nhận tiền công rất nhiều qua việc nuôi dưỡng chính đứa con của mình. Và đó là lời hứa của Allah. Ngài phán:

    ﴿ فَرَدَدۡنَٰهُ إِلَىٰٓ أُمِّهِۦ كَيۡ تَقَرَّ عَيۡنُهَا وَلَا تَحۡزَنَ وَلِتَعۡلَمَ أَنَّ وَعۡدَ ٱللَّهِ حَقّٞ وَلَٰكِنَّ أَكۡثَرَهُمۡ لَا يَعۡلَمُونَ ١٣ ﴾ [سورة القصص: 13]

    {Bằng cách đó, TA (Allah) đã mang Y (Musa) trả lại cho bà mẹ của Y để cho cặp mắt của bà dịu lại và làm cho ba hết buồn phiền, và để cho bà biết rằng lời hứa của Allah là sự thật; nhưng đa số bọn chúng không biết.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 13).

    Vậy là, Nabi Musa u được sống và lớn lên trong sự yêu thương và nuôi dưỡng của tên bạo chúa Fir’aun. Khi Người trưởng thành, Allah đã ban cho Người kiến thức và sự lý giải khôn ngoan.

    {Và khi Musa đến tuổi trưởng thành vững chắc, TA (Allah) đã cho Y kiến thức và sự khôn ngoan. TA đãi ngộ những người làm tốt như thế.

    Và có lần khi đi vào thành phố lúc thị dân không để ý đến (người lạ mặt), Y thấy hai người đàn ông ẩu đả nhau nơi đó; một người thuộc phe của Y (Israel) và người kia thuộc phe của kẻ thù của Y (Fir’aun). Và người thuộc phe của Y gọi Y tiếp tay để đánh lại kẻ địch. Vì thế, Musa cung tay đánh kẻ thù và đã kết liễu sinh mang của hắn. Nhưng Musa sực tỉnh vội nói: “Đây là hành động của Shaytan; và rõ thật, Shaytan là kẻ thù công khai chuyên dụ dỗ (người ta) đi lạc”.

    Musa cầu nguyện thưa: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Bề tôi đã tự hại mình, xin Ngài tha thứ cho bề tôi”. Thế là, Allah đã tha thứ cho Y. Bởi quả thật, Ngài là Đấng hằng tha thứ và khoan dung.

    Musa cũng cầu nguyện thưa: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Vì Ngài đã ban ân cho bề tôi cho nên bề tôi sẽ không bao giờ tiếp tay cho những kẻ tội lỗi nữa”.

    Nhưng vào một buổi sáng nọ, khi Y đang ở trong thành phố vừa lo sợ vứa ngó chừng (binh lính của Fir’aun, sợ chúng đến lùng bắt) thì kẻ đã kêu cứu Y trợ giúp hôm qua bây giờ lại thét kêu Y tiếp tay cho hắn nữa. Musa bảo: “Quả thật, mày là một tên chuyên dắt ngươi ta làm điều sai quấy!”.

    Và khi Y (Musa) định túm lấy hắn thì hắn vội lên tiếng: “Này Musa, có phải mày định giết tao như mày đã giết một người hôm qua ư? Quả thật mày chỉ muốn trở thành một tên tàn bạo trong xứ chớ không muốn trở thành một người làm điều thiện.”

    Và từ cuối phố, có một người chạy đến báo, nói: “Này Musa, các vị tù trưởng đang họp nhau bàn chuyện của anh để giết anh. Vậy anh hãy chạy trốn đi. Quả thật, tôi chỉ muốn anh gặp điều lành”.

    Tức thời, Y bỏ chỗ đó trốn đi nơi khác vừa lo sợ vừa ngó chừng đề phòng. Y cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Xin Ngài giải cứu bề tôi khối đám người làm điều sai quấy!”.

    Và khi chạy trốn về phía địa phận của Madyan, Y nói một mình: “Biết đâu Thượng Đế của mình sẽ hướng dẫn mình đi theo con đường bằng phẳng (đúng đắn).

    Và khi đến những địa điểm có nước của địa phận Madyan, Y thấy nơi đó có một đám người đang múc nước cho đàn cừu của họ uống. Và ngoài đám đó ra, Y thấy hai người phụ nữ đang giữ đàn cừu lại ở phía sau. Y đến hỏi hài nàng: “Hai cô có chuyện gì vậy?”. Hai người phụ nữ trả lời: “Chúng tôi không thể múc nước cho đàn cừu của chúng tôi uống được trừ phi những người chăn cừu kia dắt đàn cừu của họ rời khỏi chỗ đó. Và cha của chúng tôi là một người rất già không thể giúp chúng tôi được”.

    Thế là, Musa ra tay giúp hai cô gái múc nước rồi lui về nghỉ mát dưới bóng cây. Tiếp đó, Y cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Bề tôi đang cần điều lành mà Ngài sắp ban cho”.

    Sau đó, một trong hai cô gái bẽn lẽn đến gặp Y, nói: “Cha tôi mời anh đến gặp người để người hậu đãi anh, cha tôi muốn cảm ơn anh về việc anh đã giúp chúng tôi múc nước”. Thế là, Y đến gặp ông ta và kể lại cho ông nghe câu chuyện của mình. Ông nói: “Chớ lo sợ nữa! Cậu đã thoát khỏi đám người gian ác đó rồi”.

    Một trong hai cô gái thưa với cha mình: “Thưa cha! Xin cha thuê anh ấy giúp việc. Thật sự , người giúp việc tốt nhất là người khỏe mạnh và trung tín”.

    Ông già bảo: “Bác có ý gả một trong hai đứa con gái của bác cho cháu với điều kiện chau phải làm thuê cho bác trong tám năm, nhưng nếu cháu muốn làm đủ mười năm thì tùy cháu. Và bác không muốn đối xử khắc khe với cháu; insha-Allah, rồi cháu sẽ thấy bác là người lương thiện”.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 14 – 27).

    Vậy là, Nabi Musa u đã đồng ý và chấp nhận lời giao ước đó. Hãy nghe lời phán kể của Allah:

    {Khi Musa đã hết hạn giao kèo, Y đã cùng với gia đình của mình ra đi, (Y định đưa gia đình của mình về lại Ai cập vì nghĩ rằng đã một thời gian dài, có lẽ Fir’aun đã quên những chuyện đã xảy ra). Khi đến một nơi, Y nhìn thấy ngọn lửa phía xa trên sườn núi Tur, Y đã bảo người nhà của Y: “Hãy nghỉ lại ở đây, ta thấy lửa ở đằng xa. Hy vọng ta sẽ mang về cho các người tin tốt lành hoặc có thể mang về một khúc củi cháy để các người sưởi ấm”.

    Thế là, khi đến chỗ của ngọn lửa, thì có tiếng gọi Y từ bờ phía bên phải của thung lũng tại một vùng đất đã được ban phúc của loại cây thiêng (Cây Ô-liu), phán: “Hỡi Musa! Quả thật, TA đây là Allah, Thượng Đế của vũ trụ và muôn loài. Ngươi hãy ném chiếc gậy của ngươi xuống”. Vậy là (Y đã ném gậy của Y xuống), khi thấy nó động đậy giống như một con rắn thì Y quay mặt bỏ chạy và không dám nhìn lại phía sau. (Allah) phán: “Này Musa! Hãy bước đến gần và chớ sợ. Quả thật, nhà ngươi được an toàn không có chuyện gì. Nào ngươi hãy áp bàn tay của ngươi vào lòng ngực của ngươi, khi rút ra, nó sẽ trở thành trắng toát không có gì đau đớn và hãy khép cánh tay của ngươi vào cạnh sườn của ngươi lại để khỏi sợ. Đấy là hai bằng chứng của Thượng Đế của ngươi muốn mang đến cho Fir’aun và các vị tù trưởng của hắn. Quả thật, chúng là một đám người làm loạn chống lại Allah”.} (Chương 28 – Al-Qisas, câu 29 – 32).

    Sau đó, Allah ra lệnh cho Nabi Musa u đến gặp Fir’aun để kêu gọi hắn quay về với Ngài. Ngài phán:

    ﴿ ٱذۡهَبۡ إِلَىٰ فِرۡعَوۡنَ إِنَّهُۥ طَغَىٰ ﴾ [سورة طه: 24]

    {Ngươi hãy đi gặp Fir’aun bởi quả thật hắn đã gian ác quá mức.} (Chương 20 – Taha, câu 24).

    Nabi Musa u thưa với Allah:

    ﴿ رَبِّ ٱشۡرَحۡ لِي صَدۡرِي ٢٥ وَيَسِّرۡ لِيٓ أَمۡرِي ٢٦ وَٱحۡلُلۡ عُقۡدَةٗ مِّن لِّسَانِي ٢٧ يَفۡقَهُواْ قَوۡلِي ٢٨ وَٱجۡعَل لِّي وَزِيرٗا مِّنۡ أَهۡلِي ٢٩ هَٰرُونَ أَخِي ٣٠ ٱشۡدُدۡ بِهِۦٓ أَزۡرِي ٣١ وَأَشۡرِكۡهُ فِيٓ أَمۡرِي ٣٢ ﴾ [سورة طه: 25 - 32]

    {“Lạy Thượng Đế, xin Ngài nới rộng lòng ngực của bề tôi, hãy làm cho công tác của bề tôi được thuận lợi và dễ dàng, xin Ngài tháo cái gút (ngọng) ra khỏi lưỡi của bề tôi để chúng có thể hiểu được lời nói của bề tôi, xin Ngài cử một người phụ tá cho bề tôi từ gia đình của bề tôi, Harun là đứa em trai của bề tôi, xin Ngài gia tăng sức mạnh cho bề tôi qua nó và bắt nó chia sẻ công việc cùng với bề tôi”} (Chương 20 – Taha, câu 25 – 32).

    Thế là, Allah đã đồng y yêu cầu của Nabi Musa u và ra lệnh cho cả hai cùng đi gặp Fir’aun, Ngài phán:

    ﴿ ٱذۡهَبۡ أَنتَ وَأَخُوكَ بِ‍َٔايَٰتِي وَلَا تَنِيَا فِي ذِكۡرِي ٤٢ ٱذۡهَبَآ إِلَىٰ فِرۡعَوۡنَ إِنَّهُۥ طَغَىٰ ٤٣ فَقُولَا لَهُۥ قَوۡلٗا لَّيِّنٗا لَّعَلَّهُۥ يَتَذَكَّرُ أَوۡ يَخۡشَىٰ ٤٤ ﴾ [سورة طه: 42 - 44]

    {Ngươi và đứa em trai của ngươi hãy lên đường với phép màu của TA, và chớ sao lãng việc tưởng nhớ đến TA. Hai ngươi hãy đi đến gặp Fir’aun bởi quả thật hắn là một tên tàn án quá mức. Tuy nhiên, hai ngươi hãy ăn nói với hắn lời lẽ nhã nhặn may ra hắn có thể lưu ý đến lời cảnh báo hoặc sợ Allah.} (Chương 20 – Taha, câu 42 – 44).

    Vậy là Nabi Musa u cùng người em trai của Người, Harun, đi gặp Fir’aun để mời gọi hắn trở về với Allah, nhưng hắn đã ngạo mạn và không đáp lại, Allah phán:

    ﴿ فَكَذَّبَ وَعَصَىٰ ٢١ ثُمَّ أَدۡبَرَ يَسۡعَىٰ ٢٢ فَحَشَرَ فَنَادَىٰ ٢٣ فَقَالَ أَنَا۠ رَبُّكُمُ ٱلۡأَعۡلَىٰ ٢٤ ﴾ [سورة النازعات: 21 - 24]

    {Nhưng hắn (Fir’aun) đã phủ nhận và bất tuân, hăn quay lưng bỏ đi, cố gắng tìm cách chống lại Allah, và hắn tập trung dân chúng lại rồi tuyên bố: “Ta mới chính là Thượng Đế của các ngươi”} (Chương 79 – Annazi’at, câu 21 – 24).

    Fir’aun, hắn còn dám tuyên bố một cách ngông cuồng, nói:

    ﴿ يَٰٓأَيُّهَا ٱلۡمَلَأُ مَا عَلِمۡتُ لَكُم مِّنۡ إِلَٰهٍ غَيۡرِي ﴾ [سورة القصص: 38]

    “Hỡi quân thần! Ta không biết thần linh nào khác của các ngươi ngoài ta ra” (Chương 28 – Al-Qisas, câu 38).

    Nabi Musa u đã cho hắn biết rằng Người đích thực mang những bằng chứng rõ rệt từ Allah, Đấng Tối cao, nhưng Fir’aun, hắn nói:

    ﴿ إِن كُنتَ جِئۡتَ بِ‍َٔايَةٖ فَأۡتِ بِهَآ إِن كُنتَ مِنَ ٱلصَّٰدِقِينَ ١٠٦ فَأَلۡقَىٰ عَصَاهُ فَإِذَا هِيَ ثُعۡبَانٞ مُّبِينٞ ١٠٧ وَنَزَعَ يَدَهُۥ فَإِذَا هِيَ بَيۡضَآءُ لِلنَّٰظِرِينَ ١٠٨ ﴾ [سورة الأعراف: 106 - 108]

    {“Nếu ngươi thực sự đến với một dấu hiệu thì ngươi hãy trưng bày nó ra xem, nếu ngươi nói thật”. Thế là (Musa) liền ném chiếc gậy của Y xuống tức thời nó biến thành một con rắn rõ rệt. Rồi (Musa) đưa bàn tay của Y ra tức thời nó chói sáng trước mắt những người đang đứng nhìn.} (Chương 7 – Al-Araf, câu 106 – 108).

    Nhưng Fir’aun không chịu tin, hắn vẫn ngoan cố phủ nhận những gì Nabi Musa u mang đến. Hắn đã triệu tập hết tất cả những vị pháp sư và thầy ma thuật có danh tiếng trong triều, bởi hắn và quân thần của hắn cho rằng phép lạ mà Nabi Musa u mang đến thật ra chỉ là trò ma thuật. Allah phán về lời khẳng định của hắn và quân thần của hắn:

    ﴿ إِنَّ هَٰذَا لَسَٰحِرٌ عَلِيمٞ ﴾ [سورة الأعراف: 109]

    {Quả thật đây là một nhà ma thuật tài giỏi.} (Chương 7 – Al-Araf, câu 109).

    Rồi những vị pháp sư và các nhà ma thuật tài giỏi được triệu tập trình diện trước Fir’aun và họ đã tâu với hắn:

    ﴿ وَجَآءَ ٱلسَّحَرَةُ فِرۡعَوۡنَ قَالُوٓاْ إِنَّ لَنَا لَأَجۡرًا إِن كُنَّا نَحۡنُ ٱلۡغَٰلِبِينَ ١١٣ قَالَ نَعَمۡ وَإِنَّكُمۡ لَمِنَ ٱلۡمُقَرَّبِينَ ١١٤ ﴾ [سورة الأعراف: 112، 113]

    {Và các nhà phù thủy đến trình diện Fir’aun. Họ tâu: “Thưa Bệ hạ, chắc chắn chúng tôi sẽ trọng thưởng nếu như chúng tôi giành chiến thắng chứ?”. Fir’aun bảo: Vâng, nếu các ngươi giành chiến thắng thì quả thật các ngươi sẽ trở thành những vị thân cận của ta.} (Chương 7 – Al-Araf, câu 112, 113).

    Và những nhà phù thủy này đã hứa với Nabi Musa u rằng họ sẽ trình diễn trò ma thuật giống như trò ma thuật của Người. Vậy là, Nabi Musa u nói:

    ﴿ مَوۡعِدُكُمۡ يَوۡمُ ٱلزِّينَةِ وَأَن يُحۡشَرَ ٱلنَّاسُ ضُحٗى ٥٩ ﴾ [سورة طه: 59]

    {Cuộc hẹn của quí ngài sẽ nhằm vào ngày đại hội, và hãy cho dân chúng tụ tập vào lúc mặt trời lên cao khoảng một sào.} (Chương 20 – Taha, câu 59).

    Thật ra Nabi Musa u đã hẹn với họ vào ngày đại hội của họ vào giờ như thế vì muốn có nhiều người chứng kiến.

    Vậy là giờ hẹn đã đến, các nhà phù thủy đã tập hợp đông đủ tại điểm hẹn, khi đã đến giờ thi đấu, các nhà phủ thủy lên tiếng:

    ﴿ يَٰمُوسَىٰٓ إِمَّآ أَن تُلۡقِيَ وَإِمَّآ أَن نَّكُونَ نَحۡنُ ٱلۡمُلۡقِينَ ١١٥ قَالَ أَلۡقُواْۖ فَلَمَّآ أَلۡقَوۡاْ سَحَرُوٓاْ أَعۡيُنَ ٱلنَّاسِ وَٱسۡتَرۡهَبُوهُمۡ وَجَآءُو بِسِحۡرٍ عَظِيمٖ ١١٦ ﴾ [سورة الأعراف: 115، 116]

    {“Này Musa! Ngươi ném bửu bối của ngươi trước hay là bọn ta ném trước”. Musa nói: “Các người hãy ném xuống trước đi”. Thế là họ ném bửu bối của họ xuống. Và khi họ ném bửu bối của họ xuống, trò mà thuật của họ đã làm cho hoa mắt mọi người, và đã làm cho họ khiếp đãm trước trò ma thuật vĩ đại đó.} (Chương 7 – Al-Araf, câu 115, 116).

    Không phải chỉ có người dân khiếp đãm trước trò ma thuật của các nhà phủ thủy đó mà ngay cả Nabi Musa u cũng có sự sợ hãi. Allah phán:

    ﴿ فَإِذَا حِبَالُهُمۡ وَعِصِيُّهُمۡ يُخَيَّلُ إِلَيۡهِ مِن سِحۡرِهِمۡ أَنَّهَا تَسۡعَىٰ ٦٦ فَأَوۡجَسَ فِي نَفۡسِهِۦ خِيفَةٗ مُّوسَىٰ ٦٧ قُلۡنَا لَا تَخَفۡ إِنَّكَ أَنتَ ٱلۡأَعۡلَىٰ ٦٨ وَأَلۡقِ مَا فِي يَمِينِكَ تَلۡقَفۡ مَا صَنَعُوٓاْۖ إِنَّمَا صَنَعُواْ كَيۡدُ سَٰحِرٖۖ وَلَا يُفۡلِحُ ٱلسَّاحِرُ حَيۡثُ أَتَىٰ ٦٩ ﴾ [سورة طه: 66، 69]

    {Do pháp thuật của chúng, những sợi dây và những chiếc gậy của chúng hiện hình trước mặt Y (Musa), giống như chúng đang cử động. Thấy thế, Musa đâm ra sợ hãi trong lòng. TA (Allah) đã phán trấn an Y: Ngươi chớ sợ, chắc chắn ngươi sẽ cao tay hơn. Nào ngươi hãy ném bảo vật nơi tay phải ngươi xuống, nó sẽ nuốt hết những vật mà chúng đã làm ra. Quả thật, những vật mà chúng đã làm chỉ là xảo thuật của một nhà ảo thuật ma thôi, và nhà ảo thuật cho dù thế nào cũng không thể thắng nổi (sự thật).} (Chương 20 – Taha, câu 66, 69).

    Thế là Nabi Musa u ném cây gậy của Người xuống.

    ﴿ فَإِذَا هِيَ تَلۡقَفُ مَا يَأۡفِكُونَ ١١٧ فَوَقَعَ ٱلۡحَقُّ وَبَطَلَ مَا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ ١١٨ فَغُلِبُواْ هُنَالِكَ وَٱنقَلَبُواْ صَٰغِرِينَ ١١٩ وَأُلۡقِيَ ٱلسَّحَرَةُ سَٰجِدِينَ ١٢٠ قَالُوٓاْ ءَامَنَّا بِرَبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ١٢١ رَبِّ مُوسَىٰ وَهَٰرُونَ ١٢٢ ﴾ [سورة الأعراف: 117 - 122]

    {Nó tức khắc nuốt trọn các vật mà họ (những nhà phủ thủy của Fir’au) là làm. Bởi thế, sự thật đã toàn thắng còn những vật hư ảo mà họ đã làm ra trở thành vô hiệu. Do đó, họ đã bị thua cuộc và bị xem thường. Và các tên phù thủy (của Fir’aun) sụp xuống quì lạy vì khuất phục. Họ nói: “Chúng tôi xin tin tưởng nơi Thượng Đế của vũ trụ và muôn loài, Thượng Đế của Musa và Harun”.} (Chương 7 – Al-Araf, câu 117 – 122).

    Và sau khi những nhà phù thủy của Fir’aun đã có đức tin, còn Fir’aun và quân thần của hắn vẫn ngạo mạn, ngoan cố không tin và cứ tiếp tục hoành hành tội ác của chúng trong xứ sở. Nabi Musa u đã cầu xin Allah hủy hoại tài sản của chúng và làm cho trái tim của chúng chai cứng lại để chúng nếm hình phạt đau đớn.

    ﴿ رَبَّنَا ٱطۡمِسۡ عَلَىٰٓ أَمۡوَٰلِهِمۡ وَٱشۡدُدۡ عَلَىٰ قُلُوبِهِمۡ فَلَا يُؤۡمِنُواْ حَتَّىٰ يَرَوُاْ ٱلۡعَذَابَ ٱلۡأَلِيمَ ٨٨ ﴾ [سورة يونس: 88]

    {Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy tàn phá tài sản của chúng và làm cho tấm lòng của chúng chai cứng lại. Bởi thế, chúng cứ không tin tưởng cho đến lúc chúng phải chứng kiến hình phạt đau đớn.} (Chương 10 – Yunus, câu 88).

    Allah đã đáp lại lời câu xin của Nabi Musa u và Harun u. Ngài đã ra lệnh cho Nabi Musa u đưa dân Israel hãy trốn đi trong đêm, Ngài phán:

    ﴿ وَأَوۡحَيۡنَآ إِلَىٰ مُوسَىٰٓ أَنۡ أَسۡرِ بِعِبَادِيٓ إِنَّكُم مُّتَّبَعُونَ ٥٢ فَأَرۡسَلَ فِرۡعَوۡنُ فِي ٱلۡمَدَآئِنِ حَٰشِرِينَ ٥٣ إِنَّ هَٰٓؤُلَآءِ لَشِرۡذِمَةٞ قَلِيلُونَ ٥٤ وَإِنَّهُمۡ لَنَا لَغَآئِظُونَ ٥٥ ﴾ [سورة الشعراء: 52 -55]

    {Và TA (Allah) đã mặc khải cho Musa: “Ngươi hãy dẫn bầy tôi của TA ra đi ban đêm. Thật sự, các ngươi sẽ bị truy giết”. Quả thật, Fir’aun phái những người loan tin đi khắp các thị trấn: “Quả thật những người này (Israel) chỉ là một nhóm nhỏ, quả thật chúng đã phạm tội “khi quân phạm thượng”, chọc giận đến bọn ta”.} (Chương 26 – Ash-Shu’ara, câu 52, 55).

    ﴿فَأَتۡبَعُوهُم مُّشۡرِقِينَ ٦٠ فَلَمَّا تَرَٰٓءَا ٱلۡجَمۡعَانِ قَالَ أَصۡحَٰبُ مُوسَىٰٓ إِنَّا لَمُدۡرَكُونَ ٦١ قَالَ كَلَّآۖ إِنَّ مَعِيَ رَبِّي سَيَهۡدِينِ ٦٢ فَأَوۡحَيۡنَآ إِلَىٰ مُوسَىٰٓ أَنِ ٱضۡرِب بِّعَصَاكَ ٱلۡبَحۡرَۖ فَٱنفَلَقَ فَكَانَ كُلُّ فِرۡقٖ كَٱلطَّوۡدِ ٱلۡعَظِيمِ ٦٣ ﴾ [سورة الشعراء: 60 -63]

    {Rồi chúng (Fir’aun và quân lính của hắn) truy đuổi theo bắt họ (Israel) vào lúc hừng đông. Bởi thế, khi hai đoàn người đối diện nhau, các tông đồ của Musa nói: “Chắn chắn chúng ta sắp bị bắt đến nơi rồi!”. Musa bảo: “Không đâu! Thượng Đế của ta đang ở cùng vơi ta và Ngài sẽ hướng dẫn ta”. Liền lúc đó, TA đã mặc khải cho Musa: “Hãy dùng cây gậy của ngươi đánh xuống mặt biển!”. (Thế là Musa làm theo lệnh Ngài) tức thời, biển rẽ ra làm đôi biến thành bức tường thành đứng sừng sửng như một quả núi vĩ đại.} (Chương 26 – Ash-Shu’ara, câu 60 – 63).

    Vậy là nước biển chẻ làm đôi tạo thành một con đường, hai bên là hai bức tường thành đứng sừng sửng như quả núi. Nabi Musa u và các tông đồ của Người đã băng qua con đường đó, Fir’aun và quân lính của hắn cũng băng theo sau, và khi đoàn của Nabi Musa u rời khỏi còn đường đó đến bờ biển bên kia thì Allah ra lệnh cho biển trở lại y như ban đầu, thế là Fir’aun và quân lính của hắn bị nhấn chìm. Allah phán:

    ﴿ وَجَٰوَزۡنَا بِبَنِيٓ إِسۡرَٰٓءِيلَ ٱلۡبَحۡرَ فَأَتۡبَعَهُمۡ فِرۡعَوۡنُ وَجُنُودُهُۥ بَغۡيٗا وَعَدۡوًاۖ حَتَّىٰٓ إِذَآ أَدۡرَكَهُ ٱلۡغَرَقُ قَالَ ءَامَنتُ أَنَّهُۥ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا ٱلَّذِيٓ ءَامَنَتۡ بِهِۦ بَنُوٓاْ إِسۡرَٰٓءِيلَ وَأَنَا۠ مِنَ ٱلۡمُسۡلِمِينَ ٩٠ ءَآلۡـَٰٔنَ وَقَدۡ عَصَيۡتَ قَبۡلُ وَكُنتَ مِنَ ٱلۡمُفۡسِدِينَ ٩١ ﴾ [سورة يونس: 90، 91]

    {Và TA (Allah) đã đưa con cháu của Israel vượt qua biển, Fir’aun và quân lính của hắn đuổi theo bắt họ đầy câm phẫn và hận thù cho đến khi hắn bị nhân chìm dưới nước thì hắn mới nói: “Tôi xin tin tưởng, quả thật không có Thượng Đế nào ngoài Đấng mà con cháu của Israel tin tưởng. Và tôi xin là một người thần phục Ngài”. Allah phán: “Bây giờ nhà ngươi mới tin ư? Trước đây không lâu, nhà ngươi vẫn còn là một tên làm loạn và là một tên thối nát mà”.} (Chương 10 – Yunus, câu 90, 91).

    Quả thật, đây là một câu chuyện trong đó chứa đựng những bài học cho những ai có kiến thực và biết suy ngẫm. Allah, Đấng Tối cao phán:

    ﴿ لَقَدۡ كَانَ فِي قَصَصِهِمۡ عِبۡرَةٞ لِّأُوْلِي ٱلۡأَلۡبَٰبِۗ مَا كَانَ حَدِيثٗا يُفۡتَرَىٰ وَلَٰكِن تَصۡدِيقَ ٱلَّذِي بَيۡنَ يَدَيۡهِ وَتَفۡصِيلَ كُلِّ شَيۡءٖ وَهُدٗى وَرَحۡمَةٗ لِّقَوۡمٖ يُؤۡمِنُونَ ١١١ ﴾ [سورة يوسف: 111]

    {Quả thât, trong các câu chuyện của họ (các Sứ giả) có một bài học cho những người thông hiểu. Nó (Qur’an) không phải là một lời bịa đặt mà là một sự xác nhận những điều đã có trước Nó và là một sự trình bày chi tiết tất cả những sự việc. Và (Nó) là một Chỉ đạo và là một Hồng ân cho những người có đức tin.} (Chương 12 – Yusuf, câu 111).

    Quí đồng đạo thân hữu!

    Như vậy, giáo luật khuyến khích các tín đồ Muslim chúng ta nhịn chay ngày này để tạ ơn Allah, Đấng Tối cao và Ân phúc. Bởi quả thật, Nabi Musa u đã nhịn chay ngày này để tạ ơn Allah, và Nabi của chúng ta, Muhammad e, cũng đã nhịn chay ngày này và quy định cho các tín đồ của Người nhịn chay nó.

    ﭷ ﭸ ﭹ ﭺ ﭻ ﴿ هَلۡ أَتَىٰكَ حَدِيثُ مُوسَىٰٓ ١٥ إِذۡ نَادَىٰهُ رَبُّهُۥ بِٱلۡوَادِ ٱلۡمُقَدَّسِ طُوًى ١٦ ٱذۡهَبۡ إِلَىٰ فِرۡعَوۡنَ إِنَّهُۥ طَغَىٰ ١٧ فَقُلۡ هَل لَّكَ إِلَىٰٓ أَن تَزَكَّىٰ ١٨ وَأَهۡدِيَكَ إِلَىٰ رَبِّكَ فَتَخۡشَىٰ ١٩ فَأَرَىٰهُ ٱلۡأٓيَةَ ٱلۡكُبۡرَىٰ ٢٠ فَكَذَّبَ وَعَصَىٰ ٢١ ثُمَّ أَدۡبَرَ يَسۡعَىٰ ٢٢ فَحَشَرَ فَنَادَىٰ ٢٣ فَقَالَ أَنَا۠ رَبُّكُمُ ٱلۡأَعۡلَىٰ ٢٤ فَأَخَذَهُ ٱللَّهُ نَكَالَ ٱلۡأٓخِرَةِ وَٱلۡأُولَىٰٓ ٢٥ إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَعِبۡرَةٗ لِّمَن يَخۡشَىٰٓ ٢٦ ﴾ [سورة النازعات: 15 - 26]

    {Há Ngươi (Muhammad) đã nghe câu chuyện của Musa hay chưa? Khi Thượng Đế của Y gọi Y nơi thung lũng “Tuwa” linh thiêng: “Hãy đi gặp Fir’aun, quả thật hắn đã thực sự vượt quá mức tội ác. Hãy bảo hắn: “Há ngài muốn được tẩy sạch tội lỗi chăng. Tôi sẽ hướng dẫn ngài đến với Thượng Đế của Ngài hầu ngài có lòng sợ Allah”. Nhưng khi Musa trưng cho hắn thấy phép lạ vĩ đại thì hắn phủ nhận và bất tuân, hăn quay lưng bỏ đi, cố gắng tìm cách chống lại Allah. Hắn đã tập trung dân chúng và tuyên bố: “Ta mới là Đấng Tối cao của các ngươi”. Thế là, Allah bắt phạt hắn bằng hình phạt của Đời Sau và đời này. Quả thất, trong sự việc đó là một bài học cảnh cáo cho những biết kính sợ Allah.} (Chương 79 – Anna-zi’at, câu 15 – 26).

    بارَكَ اللهُ لِي وَلَكُمْ فِي الْقُرْآنِ الْعَظِيْمِ، وَنَفَعَنِي وَإِيَاكُمْ بِمَا فِيْهِ مِنَ الآيَاتِ وَالذِّكْرِ الْحَكِيْمِ، أَقُوْلُ مَا تَسْمَعُوْنَ، وَأَسْتَغْفِرُ اللهَ لِي وَلَكُمْ وَلِكَافَّةِ الْمُسْلِمِيْنَ مِنْ كُلِّ ذَنْبٍ فَاسْتَغْفِرُوهُ إِنَّهُ هُوَ الْغَفُورُ الرَّحِيْمُ.

    Cầu xin Allah ban phúc lành cho tôi và cho tất cả các anh em đồng đạo qua kinh Qur’an thiêng liêng và vĩ đại, xin Ngài hãy ban phúc lợi cho tôi và cho tất cả các anh em đồng đạo qua những răn dạy và hướng dẫn quí giá từ các Lời mặc khải của Qur’an.

    Tôi nói những lời mà các đồng đạo đang nghe, tôi cầu xin Allah tha thứ tội lỗi cho tôi và cho tất cả các tín đồ Muslim, xin Ngài hãy tha thứ cho họ bởi quả thật Ngài là Đấng hằng tha thứ và Nhân từ.

    Khutbah thứ hai

    اَلْحَمْدُ لِلهِ عَلَى إِحْسَانِهِ، وَالشُّكْرُ لَهُ عَلَى تَوْفِيْقِهِ وَامْتِنَانِهِ، وَأَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَحْدَهُ لَا شَرِيكَ لَهُ تَعْظِيْمًا لِشَأْنِهِ، وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ الدَّاعِيُّ إِلىَ رِضْوَانِهِ. وَصَلَّى اللهُ وَسَلَّمَ عَلىَ نَبِيِّنَا مُحَمْدٍ وَعَلىَ آلِهِ وَأَصْحَابِهِ وَأَتْبَاعِهِ بِإِحْسَانِ إِلىَ يَوْمِ الدِّيْنَ.

    Mợi lời ca ngợi và tán dương kính dâng lên Allah về những ân huệ và hồng phúc Ngài ban cho, và xin tạ ơn Ngài về sự che chở và phù hộ. Và tôi chứng nhận không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Allah, chỉ có Ngài là Thượng Đế duy nhất không có đối tác cùng Ngài, và tôi chứng nhận Muhammad e là người bề tôi và là vị Thiên sứ của Allah, một vị truyền bá và dẫn dắt nhân loại đến với sự hài lòng của của Allah.

    Cầu xin Allah ban nhiều bằng an và phúc lành cho Người e, gia quyến của Người và các bạn đạo của Người cùng với những ai đi theo con đường tốt đẹp của họ cho đến Ngày Phán xét cuối cùng.

    Quí đồng đạo thận hữu!

    Chúng ta hãy cố gắng hoàn tất hoàn thành việc nhịn chay của ngày A’shu-ra này, một ngày thiêng liêng và ân phước, ngày mà Allah sẽ bôi xóa tội lỗi của năm vừa qua, ngày mà Nabi e của chúng ta đã nhịn chay trong thời ngu muội trước Islam và trong thời sau Islam.

    Và nhịn chay ngày A’shu-ra, theo lời của học giả Ibnu Al-Qayyim, được chia làm ba cách:

    * Nhịn chay ba ngày: ngày mồng chín, mồng mười và mười một. Và đây là nhịn chay mang cả ý nghĩa nhịn chay ba ngày của tháng Muharram, nhịn chay mà nó tốt hơn tất cả các ngày nhịn chay sau Ramadan, hơn nữa, nhịn chay ba ngày như vậy sẽ có sự khác biệt với những người Kinh sách trong việc nhịn chay của họ, và một điều nữa là nhịn như vậy chắc chắn chúng ta sẽ đạt được ân phước của ngày A’shu-ra một cách kiên định không có sự ngờ vực.

    * Nhịn chay hai ngày: ngày mồng chín và ngày mồng mười, bởi vì Nabi e đã ước ao có thể được nhịn chay như vậy nhưng Người đã không có cơ hội.

    * Nhịn chay chỉ một ngày mồng mười duy nhất để đạt được sự bôi xóa tội lỗi của năm vừa qua.

    Quí đồng đạo thân hữu!

    Chúng ta hãy Salawat cho Nabi của chúng ta, Muhammad bin Abdullah e thật nhiều và thật nhiều.

    اللهم صَلِّ وَسَلِّمَ وَبَارِكْ عَلَى نَبِيْنَا مُحَمَّدٍ، وَارْضِ عَنْ أَصْحَابِهِ: أَبِيْ بِكْرٍ، وَعُمَر، وَعُثْمَان، وَعَليٍّ، وَعَنْ سَائِرِ الصَّحَابَةِ أَجْمَعِيْنَ، اللهم اغْفِرْ لِلْمُسْلِمِيْنَ وَالْمُسْلِمَات، وَالْمُؤْمِنِيْنَ وَالْمُؤْمِنَات، الأَحْيَاء مِنْهُمْ وَالأَمْوَات، وَاغْفِرْ لِمَوْتَانَا وَمَوْتَى الْمُسْلِمِيْنَ، وَأعِزّ الْإِسْلاَمَ وَالْمُسْلِمِيْنَ، وَأَذِل الشِرْكَ وَالْمُشْرِكِيْنَ.

    عَبَادَ اللهِ:

    ﴿إِنَّ اللهَ يَأْمُرُ بِالْعَدْلِ وَالإحْسَانِ وَإِيتَاءِ ذِي الْقُرْبَى وَيَنْهَى عَنِ الْفَحْشَاءِ وَالْمُنْكَرِ وَالْبَغْيِ يَعِظُكُمْ لَعَلَّكُمْ تَذَكَّرُونَ ﴾ [سورة النحل: 90]

    وَاذْكُرُوْا اللهَ الْعَظِيْمَ الْجَلِيْلَ يَذْكُرْكُمْ وَاشْكُرُوهُ عَلَى نِعَمِهِ يَزِدْكُمْ وَلَذِكْرُ اللهِ أَكْبَرُ وَاللهُ يَعْلَمُ مَا تَصْنَعُونَ.

    Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy ban bằng an và phúc lành cho Nabi của chúng con, Muhammad, và xin Ngài hài lòng với các vị Khalif chính trực, những người đã lãnh đạo một cách công bằng và liêm chính: Abu Bakr, Umar, Uthman, Ali cùng với các vị Sahabah của Người.

    Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy thứ tội lỗi cho những người Muslim nam và nữ, những người có đức tin nam và nữ, những người còn sống cũng như những người đã chết, xin Ngài hãy tha thứ tội lỗi cho những thân của chúng con đã chết và những người thân của các tín đồ Muslim đã chết, xin Ngài hãy củng cố và là vững mạnh tôn giáo Islam và các tín đồ Muslim, và xin Ngài hãy hạ thấp sự đa thần và những kẻ thờ đa thần.

    Này hỡi những bề tôi của Allah!

    {Quả thật, Allah truyền lệnh thi hành công lý, phải làm điều thiện và bố thí cho người ruột thịt, hãy ngăn cản những điều đồi bại, tội lỗi, nghịch đạo và ác đức, Ngài dạy bảo các ngươi mong rằng các ngươi biết lưu nhớ.} (Chương 16 – Annahl, câu 90).

    Hãy tụng niệm Allah, Đấng Vĩ Đại, Tối Cao, rồi Ngài sẽ nhớ đến các ngươi, hãy tạ ơn Ngài về những ân huệ và hồng phúc của Ngài rồi Ngài sẽ ban thêm cho các ngươi, và sự tụng niệm Allah là điều lớn nhất và Allah luôn biết rõ những gì các ngươi làm.!!!

    d f